foto

foto
anh ban be va gia dinh

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

Tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc” của Yasunari Kawabata

Tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc” của Yasunari Kawabata

I. Yasunari Kawabata _ Cuộc đời và sự nghiệp

1. Cuộc đời và sự nghiệp

2. Tác phẩm chính

3. Nhận xét

II. Vài nét về nghệ thuật trà đạo Nhật Bản

III. Tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

1. Tóm tắt tác phẩm

2. Chủ đề tình yêu trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

a) Tình yêu đam mê, vô luân, tội lỗi

b) Tình yêu_ phương diện khám phá tận cùng chiều sâu của cái đẹp

3. Nghệ thuật trà đạo trong tác phẩm

a) Biểu hiện của trà đạo trong tác phẩm

b) Sự mai một của trà đạo

4. Mối quan hệ giữa tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

IV. Nghệ thuật của tác phẩm

1. Ý nghĩa nhan đề

2. Ý nghĩa các biểu tượng trong tác phẩm

a) Chiếc khăn thêu Ngàn cánh hạc

b) Chiếc chén Shino với vết son môi của bà Ôta

c) Chiếc bình Shino

d) Cái bớt của bà Chikako

3. Nghệ thuật xây dựng các hình ảnh đối lập

4. Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

a) Điểm nhìn trần thuật

b) Người kể chuyện

I. Yasunari Kawabata _ Cuộc đời và sự nghiệp

1. Cuộc đời

Kawabata Yasunari (11/6/1899 - 16/4/1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 ( ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô ).

Kawabata Yashunari sinh ở khu Tenma, phía bắc trung tâm thành phố Ôsaka, ngày 11 tháng 6 năm 1899. Cha ông là thầy thuốc mất năm 1901 khi cậu bé mới lên hai tuổi và một năm sau người mẹ qua đời. Còn lại hai chị em: chị được dì đem về nuôi, còn cậu bé theo ông bà về Toyokawa, nguyên quán bên nội.

Năm 1906, mới lên bảy, bà nội mất, và ba năm sau, chị cũng mất, hai chị em chỉ được gặp lại nhau một lần từ khi chia cách. Cậu bé thay bà chăm nom ông nội ốm đau, mù loà, ông cụ mất năm 1914, lúc Kawabata 15 tuổi. Còn lại một mình, Kawabata được chú gửi vào nội trú. Cô đơn từ bé, nhưng không cô độc và cay đắng, trong cuốn tự truyện, Kawabata viết: "Mồ côi từ thuở nhỏ, tôi sống nhờ sự cưu mang của người khác. Có lẽ vì thế mà cuối cùng tôi mất hết khả năng ghét người, ngay cả giận họ." (Tự truyện văn chương, Bulgaku-teki jijoden, Autobiographie littéraire, 1934).

Năm 20 tuổi Kawabata có một mối tình lãng mạn với một thiếu nữ 15 tuổi. Chàng sinh viên năm thứ hai muốn cưới cô gái này làm vợ, và đã vẽ ra một tương lai hạnh phúc với người mình yêu. Nhưng đến phút cuối thì ngừơi thiếu nữ đó lại ra đi, Kawabata đã thực sự suy sụp. Chính nàng là hình mẫu cho các nhân vật nữ trong các sáng tác của Kawabata sau này. Suốt những năm còn lại Kawabata không lấy vợ và chỉ có một đứa con nuôi. Ông sợ sẽ di truyền lại “thiên hướng mồ côi”.

Năm 1920 Kawabata vào học ở khoa Văn học Anh của trường Đại học Tổng hợp Tokyo, lên năm thứ hai ông chuyển sang nghiên cứu văn học Nhật Bản. Ông ra tạp chí sinh viên và viết bài phê bình cho các báo Tokyo.

Năm 1927 truyện ngắn “ Vũ nữ Izu” là thành công văn chương đầu tiên của Kawabata, kể về mối tình lãng mạn của một chàng sinh viên với nàng vũ nữ trẻ - biểu tượng của cái đẹp trinh bạch, vô tội.

Mặc dù tự thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực phương Tây, Kawabata vẫn lấy văn chương cổ điển Nhật Bản làm nền tảng. Từ những năm 1930 sáng tác của Kawabata trở nên truyền thống hơn.

Năm 1934 ông bắt đầu viết “ Xứ tuyết” (hoàn thành năm 1947) .

Những năm Thế chiến II xảy ra, nhà văn cố gắng không quan tâm đến các vấn đề chính trị, dành nhiều thời gian đi du lịch và nghiên cứu. Các tác phẩm quan trọng thời kì sau chiến tranh “ Ngàn cánh hạc” (1949), “ Tiếng rền của núi” (1954) và “ Cố đô” (1962) đã tôn vinh Kawabata như một nhà văn lớn của Nhật Bản thời hiện đại.

Năm 1948 đến 1965 Kawabata giữ chức vụ chủ tịch Hội Văn bút Nhật Bản, sau năm 1959 ông là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế.

Năm 1953 Kawabata trở thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nhật Bản.

Năm 1959 ông được tặng Huân chương mang tên Goethe tại Frankfurt.

Năm 1968 Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn học vì " với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mĩ và đạo đức cao bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông - Tây theo cách của ông" (Giới thiệu giải Nobel Văn học năm 1968 của Viện Hàn lâm) .

Bốn năm sau, nhà văn 72 tuổi tự sát bằng khí gas tại nhà riêng. Đây là một điều bất ngờ và trớ trêu của số phận, bởi vì Kawabata luôn phê phán việc tự sát. Do Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh nên người ta không biết động cơ thực sự trong cái chết của ông.

¬ Vài nét về trường phái Tân cảm giác

Khi còn là sinh viên Kawabata đã cùng với Yokomitsu Riichi lập ra tờ Văn nghệ thời đại (Bungei jidai) làm cơ quan ngôn luận cho trường phái văn học Tân cảm giác (shinkankaku-ha) nhằm thực hiện một "cuộc cách mạng văn học đối đầu với làn sóng văn học cách mạng đương thời". Chọn con đường riêng cho mình, Kawabata tự bạch: "Tôi đã tiếp nhận nồng nhiệt văn chương Tây phương hiện đại và tôi cũng đã thử bắt chước nó, nhưng chủ yếu tôi là một người Đông phương và suốt mười lăm năm qua tôi chưa từng đánh mất phong cách ấy của mình."

Sau tốt nghiệp đại học (1924) Kawabata trở thành đại biểu cho trào lưu Tân Cảm giác (Shinkankakuha) theo định hướng văn học và văn hóa tiên phong Châu Âu, phủ nhận chủ nghĩa tự nhiên, cổ xúy cho những thử nghiệm phong cách, đặt cảm xúc và cảm giác vào trung tâm chuyện kể.

Trường phái Tân cảm giác gồm mười bốn nhà văn trẻ xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản năm 1924 và “cơ quan ngôn luận” của họ là Tạp chí Văn nghệ thời đại. Tân cảm giác tiếp thu ảnh hưởng từ chủ nghĩa hiện đại phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa đa đa và chủ nghĩa biểu hiện Đức. Bài tiểu luận “ Luận giải về khuynh hướng mới của các nhà văn mới, nền tảng lý luận của cách biểu đạt theo phong cách Tân cảm giác” (Shinshinsakka no shinkeiko kaisetsu – shinkankakuteki hyougen no rironteki konkyo) của Kawabata được xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của trường phái này. Kawabata cho rằng sự tiến triển của dòng văn chương mới phải bắt đầu từ cảm xúc mới. Cảm xúc đó được khơi nguồn từ cuộc sống mới ở cả người sáng tác lẫn người thưởng thức và từ đó có nền văn chương mới. Ông giải thích: Tân cảm giác là cảm xúc mới, rộng hơn là cảm quan mới về con người và cuộc sống. Nghĩa là, từ cảm xúc mới, nhà văn Tân cảm giác phải có cách biểu hiện mới để mang tới nội dung mới. Như vậy, cảm xúc mới, cách thức biểu hiện mới và nội dung mới là ba tiêu chí quan trọng để xác lập sáng tác mang dấu hiệu của Tân cảm giác trong sự đối sánh với “Cựu cảm giác”- cảm xúc của số đông, của giai cấp, khuôn mẫu trong hình thức biểu đạt, nội dung mô phỏng hiện thực.

Trường phái Tân cảm giác đề cao vai trò của trực giác trong việc cảm thụ cái đẹp. Đó là sự cảm nhận trực tiếp, là những rung động tình cảm cùng tần số với cái đẹp mà nếu dùng lí trí để mổ xẻ sẽ làm tổn thương đến nó. Đấy chính là thái độ trân trọng cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy, tinh tế.

Qua sự tóm lược trên, chúng ta thấy bài tiểu luận của Kawabata là sự “dọn đường” cho một khuynh hướng văn chương dựa trên cảm xúc mới và nghệ thuật biểu đạt hiện đại phương Tây. Tân cảm giác không có nghĩa là lấy cảm xúc chủ quan của người nghệ sỹ phủ lên thực tại mà cảm xúc ấy khởi phát từ nền tảng triết lý về thế giới của người phương Đông. Do vậy, nó là một cảm quan mới về cuộc đời bắt nguồn từ thế giới đầy xúc cảm của chính tâm hồn người nghệ sỹ, của thực tại và được thể hiện trong dạng thức biểu đạt hiện đại.

2. Tác phẩm chính

- Lễ chiêu hồn, truyện ngắn (Shokonsai ikkei, 1921)

- Vũ nữ Izu (Izu no Odoriko 1926)

- Những truyện ngắn trong lòng bàn tay (Tenohira no shosetsu, 1926)

- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurerai dan, 1930)

- Thuỷ tinh huyền tưởng (Suisho genso, 1931)

- Cầm thú (Kinju, 1933)

- Xứ tuyết, ( tiểu thuyết đầu tiên) (Yukiguni, 1935-37, 1947)

- Ngàn cánh hạc (Sembazuru, 1949-52)

- Danh thủ cờ vây (Meijin, 1951-54)

- Tiếng rền của núi (Yama no Oto, 1949-1954)

- Hồ (Mizuumi, 1955)

- Người đẹp say ngủ (Nemueru bijo, 1961)

- Cố đô (Koto, 1962)

- Cái đẹp và nỗi buồn (Utsukushisa to Kanashimi to, 1964)

- Cánh tay, truyện ngắn (1965)

- Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, diễn từ nhận giải Nobel (Utsukushii Nihon no watakushi, 1968)

- Tóc dài (Kani wa Nagaku, 1970)

3. Nhận xét

Cuộc đời của Yasunari Kawabata là một cuộc đời buồn! Buồn vì những nỗi sinh ly tử biệt. Buồn bởi sự hưng vong của dân tộc Nhật Bản. Và cả những nỗi buồn vu vơ không thể gọi thành tên, song thấm thía và dịu ngọt.

Ông từng thừa nhận: " Không bao giờ tôi trút được ám ảnh rằng mình là người lang thang ưu sầu. Là người luôn luôn mơ mộng, tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hoàn toàn trong mơ, mà vẫn luôn luôn thức giữa khi mơ... Từ sau thất bại, tôi chìm vào nỗi buồn - một nỗi buồn ngự trị triền miên trong tâm thức người Nhật chúng tôi. Từ đó trở đi tôi chỉ viết những khúc bi thương!".

Trong diễn văn đọc tại lễ trao giải Nobel Văn học 1968, Tiến sĩ Anders Usterling xác nhận: "Yasunari Kawabata là người tôn vinh vẻ đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người. Với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có thẩm mỹ và đạo đức cao, bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông - Tây theo cách của ông"...

II. Vài nét về nghệ thuật trà đạo Nhật Bản

Có lẽ, một trong những nét văn hóa đặc sắc nhất của Nhật Bản là Trà Đạo – một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Gọi là “nghệ thuật”, bởi lẽ việc uống trà của người Nhật thực sự mang tính nghệ thuật rất cao, đồng thời cũng mang phong cách sống của người dân Nhật.
Theo truyền thuyết, vào khoảng thế kỷ 12, có nhà sư Eisai sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng và phổ biến tác dụng của trà cùng với cách thức uống trà. Thời kì sau đó, trà được sử dụng phổ biến trong giới quý tộc.
Đến thế kỉ 14, một nhà sư tên là Murata Juko đưa văn hóa uống trà thành nghệ thuật. Với tư cách là một nhà sư, ông rất coi trọng cuộc sống tinh thần. Ông tìm thấy vẻ đẹp giản dị trong văn hóa uống trà hòa cùng với tinh thần Thiền – Zen trong Phật Giáo. Từ đó Trà đạo ra đời.

Tinh thần của trà đạo được biết đến qua bốn chữ “Hoà, Kính, Thanh, Tịch”.

- “Hòa” có nghĩa hài hòa, hòa hợp, giao hòa. Đó là sự hài hòa giữa trà nhân với trà thất, trà khách; sự hòa hợp giữa các trà nhân với nhau, sự hài hòa giữa trà nhân với các dụng cụ pha trà.

- “Kính” là lòng kính trọng, sự tôn kính của trà nhân với mọi sự vật và con người, là sự tri ân cuộc sống. Lòng kính trọng được nảy sinh khi tinh thần của trà nhân vươn tới sự hài hòa hoàn toàn.

- Khi lòng tôn kính với vạn vật đạt tới sự không phân biệt thì tấm lòng trở nên thanh thản, yên tĩnh. Đó là ý nghĩa của chữ “Thanh”.

- Khi lòng thanh thản, yên tĩnh hoàn toàn thì toàn bộ thế giới trở nên tịch lặng, dù sống giữa muôn người nhưng cũng như sống giữa nơi am thất vắng vẻ tịch liêu. Lúc đó, thế giới với con người không còn là hai, mà cả hai đều vắng bặt. Đó là ý nghĩa của chữ “Tịch”.

Bốn chữ “Hòa, Kính, Thanh, Tịch” như một thước đo bản thân của một trà nhân đang ở vị trí nào trên con đường Trà đạo.

Để có thể tiến hành những nghi thức Trà đạo đúng nghĩa, cần phải có một không gian thanh tịnh và hoài hòa với cảnh sắc thiên nhiên. Đáp ứng những tiêu chuẩn đó mà dần hình thành hai không gian thưởng trà chính, đó là Trà Viên và Trà Thất.

Trà Viên: là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Trà viên đòi hỏi bố cục khu vườn phải tinh tế, làm cho khu vườn vẫn giữ được nét tự nhiên.

Trà thất: là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là “nhà không”. Đó là một căn nhà mỏng manh với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng. Trà thất làm ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự vật.
¬ Đạo cụ dùng trong Trà Đạo

a.Trà: là nguyên liệu không thể thiếu trong các buổi tiệc trà, tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt, có thể là trà bột hoặc trà lá.

b. Một bình pha trà: thường bằng đất nung màu đen hay nâu có cán cầm. Bình pha trà cũng có khi bằng kim khí rất nặng màu đen, có quai xách.

c. Chén trà : chén dùng để dựng trà cho khách thưởng thức. Chén được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi chén có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai chén trà giống nhau. Các nghê nhân làm chén cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phầm của mình, vậy nên có thể dùng chén phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông:

- Mùa xuân: chén có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.

- Mùa hạ: là mùa nóng nên chén trà có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chén trà mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.

- Mùa thu: chén có hình dạng giống chén mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momiji.

- Mùa đông: là mùa lạnh nên chén có độ dày và cao hơn các chén mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.

d. Hộp đựng trà:

e. Muỗng múc trà : chiếc muỗng bằng tre, dài, một đầu uốn cong để múc trà

f. Gáo múc nước: chiếc gáo bằng tre, nhỏ, dài để múc nước từ trong ấm nước, hủ đựng nước ra chén trà.

g. Cây đánh trà: dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm từ tre, ống tre được chẻ nhỏ một đầu thành nhiều cọng tre có kích thước nhỏ khoảng 1mm.

Ðó là những dụng cụ mà mọi gia đình Nhật Bản đều phải có và được coi như đồ dùng hàng ngày của gia đình. Tuy nhiên trong trường hợp tiếp khách, họ còn mang ra thêm vài dụng cụ khác nữa để tạo vẻ lịch sự và đẹp mắt.

III. Tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

1. Tóm tắt tác phẩm

“ Ngàn cánh hạc” là tác phẩm đã đoạt Nobel văn học năm 1968, Giải thưởng Hàn Lâm Viện Nghệ thuật Nhật Bản cho Kawabata. Câu chuyện được bắt đầu bằng một buổi trà đạo tại đền Engakuji do cô Chikako Kurimoto, một người có cái bớt gớm ghiếc trên ngực và cũng là tình nhân cũ của cha Kikuji tổ chức. Tại đây, Kikuji đã gặp cô gái nhà Inamura có chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc và bà Ota cùng cô con gái là Fumiko. Ota là một nhân tình cũ của thân phụ chàng. Ota ôn lại chuyện cũ với Kikuji và bà nhìn thấy cha của chàng qua hình dáng của chàng. Ota ân ái với Kikuji và kể từ sau lần đó bà luôn bị dày vò bởi cảm giác tội lỗi. Một mặt Fumiko con gái của bà đã từng biết chuyện bà Ota đã một thời là tình nhân của cha Kikuji nên ngăn cản mối tình tội lỗi của bà với Kikuji. Đau buồn và hổ thẹn, bà Ota tự sát.

Chikako tìm cách đẩy Kikuji đến gần Yukiko _ con gái nhà Inamura và Kikuji lại cũng có cảm tình với Fumiko vì chàng tìm thấy vẻ đẹp của bà Ota qua hiện thân người con gái. Hình ảnh ngàn cánh hạc với người thiếu nữ nhà Inamura luôn chập chờn trong tâm trí Kikuji cùng với hình ảnh trong trắng của Fumiko luôn tạo cho chàng cảm giác thanh thản và bình an giữa một xã hội nhơ nhớp, những ghen ghét mưu toan của một người đàn bà mang cái bớt trên ngực và sự rụt rè sợ hãi của một người đàn bà khác mang mặc cảm tội lỗi trong tâm hồn.

Kết thúc tác phẩm chỉ còn lại Kikuji và Kurimoto... “Ngàn cánh hạc” sẽ đưa người đọc vào một thế giới của những rung động thầm kín nhất, say đắm nhất nhưng cũng tinh tế nhất của tâm hồn Nhật Bản.

2. Chủ đề tình yêu trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

Kawabata viết nhiều về tình yêu. Tình yêu đầu đời thơ mộng giữa một chàng trai trẻ và cô vũ nữ đẹp trong Vũ nữ Izu. Tình yêu bất chợt mỏng manh nhưng nồng thắm giữa Shimamura và cô kỹ nữ trong Xứ tuyết. Tình yêu - tội lỗi đam mê- cái chết trong Ngàn cánh hạc. Tình yêu chung thủy, thiêng liêng trong Thủy Nguyệt... Với Kawabata tình yêu không chỉ là những cám xúc hạnh phúc, hoặc đam mê nhục dục mà tình yêu là sự khám phá đến tận cùng cái đẹp.

Trong tác phẩm “Ngàn cánh hạc” độc giả không nhận diện được những biểu hiện tình yêu cụ thể giữa các nhân vật. Vì nhân vật không trực tiếp phát ngôn tình yêu của mình. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra sợi dây tình cảm vương vít giữa họ thông qua hệ thống ngôn ngữ đối thoại.

a) Tình yêu đam mê, vô luân, tội lỗi

a1) Tình yêu của ông Mitani với bà Ôta, Chikako

Ông Mitani là một nhân vật chỉ xuất hiện rất ít trong tác phẩm nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn , dường như ông chi phối cuộc sống của các nhân vật còn lại ngay cả khi còn sống và lúc đã mất. Ông Mitani là một người đã có gia đình, nhưng ngoài mối quan hệ với vợ, ông đã có thêm hai người đàn bà của riêng mình. Đó là bà Ôta - vợ của một người bạn và Chikako - một vị trà sư., tất cả đều hết lòng với ông ta.

Thứ nhất, mối tình giữa ông Mitani và bà Ôta là mối tình tội lỗi nhưng lại nhuốm đầy đam mê. Tội lỗi vì đây là mối quan hệ ngoài vợ chồng. Từ sau khi chồng bà Ôta qua đời, ông Mitani có trách nhiệm gìn giữ các vật dụng uống trà của chồng bà Ôta sưu tầm. Tình cảm quyến luyến giữa ông Mitani và bà Ôta nảy sinh từ đó. Ông Mitani giấu giếm vợ con quan hệ với bà Ôta trong một thời gian dài, mãi cho đến khi ông qua đời.

Xét về phía bà Ôta đây là một tình yêu đam mê mặc dù có tội lỗi. Bà chấp nhận làm người tình của ông Mitani, với “diễm phúc ở với cha chàng cho đến ngày ông nhắm mắt” và “là người mà anh ấy yêu thích nhất” (Chikako). Tình yêu với ông Mitani không bao giờ ngừng tắt kể cả khi ông đã qua đời, và ngọn lửa đam mê trong bà đã bùng cháy khi bà gặp lại người con trai của ông - Kikuji. Bà đã tìm thấy được hình ảnh của người tình qua chính đứa con trai của ông “ Khi tôi trông thấy cậu thì như thể những ngày xa xưa hiện về rõ rệt hơn bất cứ thứ gì khác” ( Ôta), nên đã ân ái với Kikuji.

Thứ hai là mối tình giữa ông Mitani và Chikako. Chikako đã từng là một món đồ chơi trong tay cha Kikuji trong một thời gian rất ngắn. Cô không được may mắn là người mà ông Mitani yêu thích nhất, ngay từ khi cuộc tình vừa bắt đầu nó đã kết thúc. Với ông Mitani, Chikako chỉ là một đồ chơi nhưng có lẽ Chikako đã giành cho ông Mitani một thứ tình cảm đặc biệt. Chikako cố gắng chiếm đoạt tình yêu từ ông Mitani, bởi vì đó là thứ mà cô ta khao khát nhưng lại không bao giờ có được. Cô ta dùng mọi thủ đọan từ việc làm thân với mẹ của Kikuji rồi trở thành người theo dõi mối tình vụng trộm giữa ông Mitani và bà Ôta; sỉ nhục bà Ôta bằng những lời nói tàn nhẫn, thậm chí không ngần ngại rải chất độc vào tâm hồn Kikuji. Hơn nữa, Chikako còn tìm mọi cách để xen vào cuộc đời của Kikuji bằng việc mai mối cho chàng với cô con gái nhà Inamura.

a2) Tình yêu của Kikuji với bà Ôta

Ngàn cánh hạc là câu chuyện về những mối tình thanh cao xen lẫn phàm tục. Đó là thực sự là câu chuyện về những mối tình xuyên thế hệ của các nhân vật. Ông Mitani yêu bà Ôta. Khi ông mất, bà Ôta tìm lại hình bóng ông qua hình ảnh của người con trai là Kikuji , kém bà những hơn 20 tuổi.Và con trai ông là Kikuji lại yêu người tình của cha mình. Sau khi bà Ôta qua đời, Kikuji lại tìm thấy hình bóng bà Ôta qua hiện thân của người con gái là Fumicô và trong khi đó chàng cũng phần nào dành tình cảm cho Yukikô - người con gái của dòng họ Inamura.

Cách kể câu chuyện tình lồng vào nhau ấy của Y.Kawabata thật day dứt. Cuộc tình ngang trái giữa ông Mitani và bà Ôta luôn hiện diện trong ký ức của Kikuji ngay cả khi người cha đã qua đời. Lúc Kikuji và bà Ôta yêu nhau, cuộc tình quá vãng ấy luôn ám ảnh người trong cuộc. Sợi dây tình vướng víu ấy đã làm cho câu chuyện phức tạp hơn. Còn mối tình giữa Kikuji và Fumicô không bao giờ trọn vẹn. Tuy có tình cảm với cô nhưng Kikuji lại luôn nhớ về bà Ôta qua chiếc chén uống trà Shinô có in vết son môi của bà và trong chàng, hình ảnh Yukikô luôn hiện diện trong tâm trí chàng. Hai tuyến câu chuyện trên đã đan xen, giằng xé tạo nên sự hấp lực của tác phẩm.

Trong một buổi họp mặt ở trà đường của Kikako, Bà Ôta chỉ muốn gặp Kikuji, con trai của người tình cũ nay đã trưởng thành, để ngỏ lời xin lỗi, nhưng "tiếng sét" giáng xuống tâm hồn, bà thấy lại người xưa và đã để mặc cho ngọn lửa đam mê sống lại nên đã ân ái cùng Kikuji. Ôta xuất hiện như một thoáng chiêm bao nhưng hương thơm và sự dịu dàng của bà chính là hiện thân của tình yêu tuyệt đối, xuyên thế hệ, xuyên kiếp người.

Tình yêu của bà Ôta và Kikuji là một tình yêu đam mê, tội lỗi vì các mối quan hệ ràng buộc của xã hội không cho phép, nói cách khách đó là một thứ tình yêu vô luân.Vì vậy, bà Ôta không thể thoát khỏi những mặc cảm tội lỗi mà mình đã gây ra. Ôta cũng như Eva, sau khi phạm cấm, tất phải đọa đầy: hối hận, mặc cảm, tội lỗi, đẩy nàng vào cái chết. Tất cả được xây dựng như một bi kịch cổ điển Shakespeare, nhưng vô cùng thanh thoát như vòng luân hồi bể khổ, bến mê của nhà Phật.

"Nàng đã đi tìm cái chết vì mặc cảm tội lỗi, vì không có lối thoát ? hay nàng chết dưới mãnh lực của tình yêu mà nàng không thể dập tắt được.

Vì tội lỗi hay vì tình yêu? Câu hỏi ấy ngày đêm không ngớt dày vò Kikuji, từ một tuần nay, không lời giải đáp.

Giờ đây chàng nhắm mắt quỳ trước bàn thờ người đã khuất, chàng thấy mùi hương nồng ầm tuyệt vời của nàng vẫn bao bọc mình như trước, thanh tịnh không gợi chút nhục thể nào. Chàng đón nhận một cách tự nhiên sự hiện diện này, hiện diện hữu tình nhưng vô thể, vọng âm hơn vọng hình, đúng với bản tính sâu sắc của nàng.

Từ khi biết tin nàng mất, Kikuji hầu như không ngủ được dù đã uống cả rượu trộn thuốc ngủ. Trong những giấc chập chờn ngắn ngủi, chàng luôn luôn giật mình tỉnh dậy, nhưng những thoáng chợp mắt ấy lại không có ác mộng mà đầy mộng mơ: những giấc mơ tràn đầy nhục cảm bào mòn thật lâu sau khi tỉnh giấc. Chàng lấy làm lạ tự hỏi, tại sao một người đã chết mà hương thơm ngây ngất của vòng tay cứ còn tồn tại mãi trong ta? (trang 750) .

Ôta chết đi, nhưng hương nàng còn lại. Kikuji ngậm ngùi day dứt với một mùi hương, mùi hương mà chỉ có những ngòi bút tuyệt vời mới tìm thấy chữ: "hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình". Một Ôta bằng xương thịt, nàng thật như thân xác, nàng thật như hương trà, nàng thật như đắm say, nàng thật như tình yêu xuyên cõi chết. Kikuji tiếp tục sống những giây phút thần tiên của nhục cảm với hương nàng, cho đến ngày chàng nhận thấy mùi hương ấy không chỉ là mộng ảo, mà còn hiện hữu trên tấm thân người con gái của nàng: Fumiko. Và đúng như ước muốn của Ôta, Kikuji theo con đường cũ nàng đã đi: chàng yêu người con gái qua hình ảnh người mẹ.

Cái chết của Ôta liên quan đến cái chết của Kawabata: "Chết là vĩnh viễn từ chối mọi lý giải của người khác. Không ai biết lý do hành động tự hủy của một người, cũng không ai có quyền phán đoán người đi tìm cái chết" (trang 756).

Cái chất tồn tại không phải là một mặt đối lập với cuộc sống mà nó là một phần của cuộc sống,chết chưa hẳn là hết, mà nhiều khi chỉ là khởi hành. Kawabata rõ hơn ai hết về cái chết sau mỗi tác phẩm: Ôta đã hoàn tất "tác phẩm", đã đi trọn cuộc tình xuyên thế hệ: nàng đã tìm đến tình yêu bên kia cõi sống, và kinh nghiệm có một không hai này của nàng để lại cho trần thế một ý nghĩa mới về tình yêu đam mê, về nhục dục.

b) Tình yêu_ phương diện khám phá tận cùng chiều sâu của cái đẹp

Tình yêu cái đẹp, cảm xúc về cái đẹp là một nét nổi bật của văn hóa Nhật Bản. Trước sự xâm thực của lối sống mới và văn hóa phương Tây, Kawabata đã miệt mài trên lộ trình tìm về cái đẹp của bản sắc dân tộc. Kawabata là nhà văn được người dân của xứ sở mặt trời mọc cho là "Nhật Bản nhất'! Kawabata say mê và am hiểu văn học phương Tây nhưng sâu thẳm tự cội nguồn ông vẫn là nhà văn phương Đông. "Đến hiện đại từ truyền thống", tác phẩm của Kawabata mang đậm dấu ấn của mỹ học truyền thống Nhật Bản.

Theo E.M.D' Jakonova: "Trong mỹ học tuyền thống Nhật Bản, nỗi buồn, nỗi u sầu, nỗi buồn cô đơn không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp, bởi vì vẻ đẹp sẽ không đầy đủ nếu thiếu nỗi buồn", "cái đẹp với tư cách là cái bé bỏng, mong manh, yếu đuối”.

Có thể nói rằng để khám phá cái đẹp, Kawabata đã để cho nhân vật Kikuji gặp Yukiko và Fumiko. Hai người phụ nữ này được nhà văn xây dựng như những hình mẫu của cái đẹp và cũng là hình bóng đem đến cảm giác thanh thản và bình an cho chàng Kikuji. Nhân vật nữ của Kawabata luôn ánh chiếu vẻ đẹp bên trong, ở họ có một cái gì đấy khó nắm bắt. Tất cả dường như ở dạng trực cảm, ẩn náu và tế vi. Tất cả họ đều tràn trề nữ tính. Khắc họa chân dung nhân vật nữ, Kawabata thường chộp lấy những khoảnh khắc bừng sáng của vẻ đẹp.

Tác giả đã để Kikuji gặp Yukiko trong buổi trà đạo do Chikako Kurimoto tổ chức và chàng đã có ấn tượng đẹp với nàng bởi vể đẹp thanh thoát và chiếc khăn có in ngàn cánh hạc của nàng ngay từ lần gặp đầu tiên. Kikuji chỉ gặp nàng có hai lần nhưng hình bóng Yukiko luôn chập chờn trong tâm trí của Kikuji. Yukiko mang một vẻ đẹp cao quý, thanh thoát, cùng với chiếc khăn tay ngàn cánh hạc đã tôn lên vẻ đẹp trong trắng của nàng. Kawabta xây dựng hình tượng người con gái nhà Inamura như một biểu tượng của cái đẹp. một nét đẹp của văn hóa truyền thống Nhật Bản. Hình ảnh cô con gái nhà Inamura cứ trở đi trở lại trong tâm trí chàng Kikuji như một dòng suối trong lành tắm mát tâm hồn chàng giữa một xã hội đầy những ghen gét, mưu toan tính toán của một người đàn bà mang trên mình cái bớt gớm ghiếc. Kikuji không chỉ coi đó là vẻ đẹp của tình yêu trai gái, chàng không những cảm thấy dễ chịu trước vẻ đẹp trinh trắng truyền thống của nàng mà Kikuji còn coi đó là vẻ đẹp cứu cánh của tâm hồn mình.

Người ta gọi Kawabata là người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp, Kawabata đi tìm cái đẹp mất đi trong khoảnh khắc và cũng tái sinh trong khoảnh khắc. Như Dostoevski đã từng tuyên ngôn “ cái đẹp cứu thế giới” , chúng ta tìm lại thể tính qua cái đẹp và cái đẹp lại cứu vớt chúng ta qua cơn tục lụy. Tình cảm của Kikuji dành cho Yukiko không chỉ đơn thuần là tình yêu, là sự tôn vinh cái đẹp mà đó còn là sự luyến tiếc vẻ đẹp truyền thống xưa cũ. Xây dựng hình tượng nhân vật Yukiko như một biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản, Kawabata muốn gửi gắm nỗi niềm nuối tiếc những giá trị văn hóa cổ xưa đang dần tàn phai. Khi nghe tin của Kurimoto báo rằng người thiếu nữ nhà Inamuara đã đi lấy chồng Kikuji đã thực sự súc động, hình ảnh nàng lại hiện lên trong tâm trí chàng và đó cũng là lần cuối cùng Kikuji nghĩ tới nàng, ấn tượng đó đã “trôi dạt vào trí nhớ chàng với một vẻ trong sáng”. Cho đến nhừng dòng cuối cùng của tác phẩm thì hình ảnh Yukiko trong tâm trí chàng Kikuji vẫn không thay đổi. Điều đó tạo nên một vể đẹp xuyên xuốt, sâu sắc khiến cho hình tường người thiếu nữ nhà Inamura ăn sâu vào tiềm thức của người đọc như một biểu tượng của cái đẹp tuyệt đối. Yukiko không chỉ là biểu tượng của cái đẹp truyền thống Nhật Bản, mà đó còn là một hình mẫu của một tình yêu tuyệt đích.

Khác với người thiếu nữ nhà Inamura, Fumiko lại mang một vẻ đẹp thuần khiết, nguyên sơ: “Người con gái được thừa hưởng chiếc cổ dài và đôi vai đầy đặn của bà mẹ. Miệng nàng rộng hơn, tuy nhiên, môi nàng luôn mím chặt lại”. Fumiko vừa kín đáo, sâu sắc lại vừa hiền hậu và bao dung luôn mang đến cho Kikuji cảm giác thanh thản và thoải mái trong tâm hồn. Mối tình giữa Kikuji và Fumicô không bao giờ trọn vẹn. Tuy dành nhiều tình cảm cho cô nhưng Kikuji lại luôn nhớ về bà Ôta qua chiếc chén uống trà Shinô có in vết son môi của bà và trong chàng, hình ảnh Yukikô cùng với chiếc khăn ngàn cánh hạc luôn hiện diện. Tình yêu giữa Kikuji và Fumico là một thứ tình yêu luôn chập chờn giữa thực ảo, hình ảnh người tình quá cố và người con gái luôn đan sen, lẫn lộn khiến Kikuji không thể nhận diện đươc đâu là tình cảm thật của mình.

Hai người con gái khac nhau, mang hai nét tính cách khác biệt nhưng họ cùng gặp gỡ nhau ở một điểm chung đó là cái đẹp và trà đạo. Cả Yukiko và Fumiko đều là những người phụ nữ đẹp, hầu hết các nhân vật nữ trong sáng tác của Kawabata đều là những hình mẫu của cái đẹp mang linh hồn xứ sở Phù Tang. Cái đẹp của hai người thiếu nữ tên kà một vẻ đẹp trong trẻo tuyệt đối và nguyên vẹn. Nhân vật nữ thường được Kawabata xây dựng trong thủ pháp gương soi. Hai người thiếu nữ thực chất là một thứ gương soi trong suốt để Kikuji nhìn vào đáy sâu tâm hồn mình. Kinh thánh cho rằng Eva được sinh ra từ một phần xương sống của Adam, vì thế người phụ nữ phải phụ thuộc vào người đàn ông, người đàn ông ban phát sự sinh tồn cho người phụ nữ. Nhưng đối với Kikuji thì ngược lại, thiên tính nữ vĩnh hằng đã ban phát cái cảm giác vượt thoát nỗi cô đơn trong hiện tại để vươn tới chiều sâu tận cùng của cái đẹp.

3. Nghệ thuật trà đạo trong tác phẩm

a) Biểu hiện của trà đạo trong tác phẩm

Có thể nói trà đạo là chủ đề chính của tiểu thuyết “Ngàn cánh hạc”.Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu đời thường trên cái nền trà đạo trong buổi chiều hoàng hôn. Tuy không biểu hiện một cách cụ thể, hệ thống nhưng người đọc vẫn có thể lắp những mảnh ghép nhỏ về trà đạo để có nên một cái nhìn hoàn chỉnh về nghệ thuật trà đạo Nhật Bản.

Nghệ thuật trà đạo trong tác phẩm được thể hiện qua các buổi trà đạo. Lần thứ nhất do Chikako tổ chức và những lần còn lại được tổ chức tại nhà Kikuji. Kawabata đã có gắng tái dựng lại những nét đẹp còn vương sót lại của trà đạo trong buổi giao thời thông qua những nghi thức uống trà và những vật dụng trong trà đạo. Kawabata đã dựng nên một bức tranh trà đạo trong buổi hoàng hôn, nhưng nét đẹp của trà đạo không phải vì thế mà mất hết đi vẻ đẹp vốn có. Trong tác phẩm Kawabata miêu tả rất ít về chi tiết của những nghi lễ trà đạo. Đọc tác phẩm của Kawabata cũng có nghĩa là đồng sáng tạo, người đọc phải tìm ra những “mật mã” ẩn sâu bên trong con chữ.

“ Ngàn cánh hạc” được viết ra như một niềm hối tiếc về vẻ đẹp đang phai tàn cho dà tác giả đang cố cứu vớt nó. Trong tác phẩm Kawabata tập trung thể hiện vể đẹp của trà đạo thông qua những đạo cụ như: chiếc bình Shino, chiếc chén uống trà Shino có vết son của bà Ôta và cặp chén Raku... Đó là những “bảo vật” của nghệ thuật trà đạo có từ lâu đời. Từ ông tổ trà đạo của Nhật Bản, rồi được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác lưu giữ. Với nghệ thuật miêu tả đồ vật rất sống động bằng cách “tâm linh hóa” chúng, Kawabata đx đưa ngươid đọc vào không gian của cái đẹp đang chịu đọa đày.

Chiếc bình cổ Shino được miêu tả vô cùng gợi cảm: “ Một màu đỏ nhạt nổi bật trên nền bằng men. Kikuji đưa tay ra vuốt ve mặt bình nhẵn bóng và mát rượi”. Nó “Thật là mềm mại như một giấc mộng”. Đó là một chiếc bình dùng để đựng nước pha trà trong những buổi trà đạo đã có lịch sử lâu đời. Cùng với chiếc bình Shino là cái chén Shino với vết môi người thiếu phụ đã ngấm vào miệng chén thành vệt son không bao giờ phai lạt. Đó là một chiếc chén đã gắn với những cuộc trà có lịch sử trên 300 năm :"Nhìn kỹ mới thấy một ánh đỏ hiện lên trên nền sứ trắng ngà, đúng như Fumiki đã nói với chàng trong điện thoại sáng nay. Càng ngắm, càng thấy như ánh đỏ trong suốt lộ dần lên trên nền trắng. Vành chén màu hồng ngả sang hoàng thổ, có một chỗ hồng đậm hơn một chút”, “Mặt ngoài chén, vài nét thuần khiết vẽ một chiếc ống gầy trổ ra một cành mộc thảo, với những cánh lá rộng bản, màu lam lục, sẫm gần như đen, tưởng như có những chấm hoen rỉ, lỗ chỗ trên kẽ lá”. Vết son môi của bà Ôta trên miệng chén không làm thuyên giảm đi vẻ đẹp của chiếc chén mà càng làm cho nó ánh lên vẻ đẹp sống động hơn vì người Nhật "thích hơn những cái có độ bóng chìm sâu chứ không phải là sự sáng sủa bề ngoài”. Đó là sự lấp lánh nhưng dưới một lớp mỏng mờ đục - đó là độ bóng của thời gian hay nói chính xác hơn là "vấy dầu mỡ". Người Nhật "thực sự thích những đồ vật mang trên đó dấu vết của thân thể con người, lớp muội dầu mỡ, vẻ phong hóa và sự dầu dãi gió mưa"

Kawabata đã dày công khi tô vẽ thật kĩ càng vẻ đẹp của những vật dụng này. Những vật dụng đó không chỉ đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật thuần khiết mà nó còn mang giá trị nhân học: “Khi cô nhìn thấy chén, cô quên đi những khuyết điểm của người chủ cũ. Cuộc đời của con người chỉ là một phànn rất nhỏ so với cuụoc đời của một chiếc chén uống trà.Trước vẻ đẹp đáng trân trọng của chiếc chén uống trà, dù người chủ cũ của nó có tội lỗi như thế nào, nhưng ông ta đã gìn giữ nâng niu nó thì tội lỗi đó phai nhạt. Và cuộc đời một con người chỉ là thoáng chốc so với sự vĩnh cửu của một vẻ đẹp như thế”. Những bảo vật đó chứng tỏ sự đậm đặc niềm đam mê tâm huyết nghệ thuật trà đạo của một thế hệ đi trước. Hơn thế, trà đạo còn có thể thanh lọc tâm hồn khién cho con người ta hướng tới cái Chân - Thiện - Mĩ.

b) Sự mai một của trà đạo

Tác phẩm dựa trên một nền trà mà gốc rễ đã lung lay. Trà thất của những gia đình truyền thống ẩm mốc cửa đóng then gài. Những vật dụng cũ như chiếc binh Shino, chén Shino và cặp chén Reku... bị bỏ bê lăn lóc, lọt vào tay một thế hệ trẻ đang quay lưng lại với trà đạo.

Đó là chàng Kikuji mà trong các buổi trà đạo của Chikako tổ chức chàng luôn nhận lời mời nhưng chưa một lần nào chàng đến dự kể từ khi cha chàng mất. Đối với chàng những lần được mời như vậy chỉ là sự hòa niệm, “có ý nghĩa tưởng nhớ đến cha chàng vậy thôi”. Đó cũng là lí do tại sao từ ngày cha chàng mất, Kikuji dã không sử dụng túp lều vẫn được cha chàng thường dùng để tổ chức trà đạo lúc còn sống và chàng cũng đã đóng cửa hẳn túp lều kể từ khi mẹ chàng mất. Hành động của Kikuji lầ sự quay lưng lại với trà đạo của một lớp trẻ và điều đó đã bật ra thành tiếng: “ Tôi sẽ bỏ trà đạo thôi".

Còn Yukiko, người con gái đẹp mang ngàn cánh hạc trở thành đối tượng kiếm chồng. Yukiko là nạn nhân của "thời cuộc", thời mà người ta dùng các trà thất làm chỗ mối lái kiếm chồng. Tinh thần của trà đạo được thể hiện qua bốn chữ: “Hoà, Kính, Thanh, Tịch”, thế nhưng trong tác phẩm ở hầu hết các buổi tiệc trà Kawabata đã để nhân vật của mình nói quá nhiều và qua những lời đối thoại giữa các nhân vật thì tính cách của tững người một đã dần lộ rõ.Tất cả dẫn đên shậu quả: phong toả hương trà, làm ô uế trà đường, khiến cho hương trà phải bay theo cánh hạc.

Chikako là một vị trà sư nhung lại mang phong cách của một mụ mối, với "cái bớt tím đen, to bằng bàn tay xòe, có lông cứng như lông nhím, trên vú trái", luôn là kẻ thộc mạch cố xen vào cuộc sống của Kikuji với những mưu toan tính toán của mụ. Giao phó một nghệ thuật có truyền thống lâu đời như trà đạo vào một người như vậy như vậy, Kawabarta không còn ảo ảnh nào nữa về sự đào thải, mai một, của trà đạo. Trà đạo không những trên đường suy vi mà nó đã thực sự bị biên chất, mất hét đi những giá trị truyền thống vốn có.Trà đạo không chỉ bị lãng quên, bị sâm lấn vấy đục mà nó còn bị biến thành công cụ chuốc lợi. Hai hình ảnh cái bớt trên ngực mụ Chikako và ngàn cánh hạc trên tay Kikako, cho thấy cách nhà văn tạo ấn tượng mạnh: Hai hình ảnh, một cực kỳ xấu xa ghê tởm và một cực kỳ thơ mộng, đã không ngừng chi phối tâm hồn Kikuji, nhưng rồi cái bớt đã xua đuổi cánh hạc: đạo trà rơi vào trà sư vô đạo.

Những buổi thiết trà thường là mặt tiền che đậy những cuộc thương lượng bên trong, nó như một chiêc bình phong có vẻ bề ngoài yên ả che dấu những câu chuyện phàm tục. Trong tác phẩm buổi tiệc trà đầu tiên do Chikako tổ chức là cái vỏ để mụ mối lái cho Kikuji với người con gái nhà Inamura và để mụ thỏa mãn những mưu toan tính toán của mụ. Những buổi thiết trà tiếp theo được tổ chức ở túp lều ẩm moocs của gia đình Kikuji, nhưng rút cuộc tất cả những nghi lễ trà đạo diễn r trong tác phẩm cũng chỉ là một tấm bình phông ngụy tạo. cùng với những cái chết bí mật của các thủ lãnh trường phái trà đạo, trong suốt bốn thế kỷ, nằm trong những bí mật của nghệ thuật trà trị, và họ chết đi, mang cả bí mật của trà trị sang thế giới bên kia.

Sự ẩm mốc, giăng mắc đầy mạng nhện của túp lều mà gia đình Kikuji thường sử dụng làm trà thất cũng là sự “ ẩm mốc”, mai một của trà đạo. Và hình ảnh Fumicô đập vỡ chiếc chén Shino có in dấu vết son môi của mẹ nàng là bà Ôta, trong niềm tức tưởi ở cuối tác phẩm phải chăng là một sự từ chối hẳn nghệ thuật trà đạo? Trà đạo có tồn tại thì phải thanh cao chứ không thể để cho nó bị vấy đục. Đặc biệt Kawabata đã kết thúc tác phẩm bằng một kết thúc bỏ ngỏ với một câu nói đầy day dứt: “ Rút cục chỉ còn lại Kurimoto”, “ Như đẻ nhổ vào người đàn bà mà chàng coi như kẻ thù tất cả cái nọc độc tích tụ lại, Kikuji bước hối hả vào bóng mát của công viên”. Như vậy, cái còn lại chỉ là sự xấu xa, ghớm ghiếc như bản chất của cuộc sống phức tạp này.

4. Mối quan hệ giữa tình yêu và trà đạo trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

Tình yêu và trà đạo là hai chủ đề song song đồng hiện trong tác phẩm. Kawabata không chỉ đơn thuân viết về trà đạo mà qua cái nền trà đạo đó ông đã kể một câu chuyện tình yêu dời thường đày day dứt.

Có thể nói trà đạo là nhịp nối giữa những mối tình ngang trái, thông qua những buổi thiết trà cùng với sự am hiểu về trà của mỗi người mà họ đã tìm đến nhau, yêu nhau và mất nhau trong cái nèn trà đạo suy vi đó. Trà đạo làm cho những mối tình day dứt kia có phần đẹp hơn và tình yêu lại soi rọi vào trà đạo làm vẻ đẹp truyền thống của trà đạo ánh lên những tia sáng le lói cuối cùng.

Hình ảnh Yukiko cùng chiếc khăn ngàn cánh hạc không chỉ là biểu tượng của một tình yêu thuần khiết mà dó còn là hình ảnh hiện hữu của hương trà đã được vật chất hóa thành cái đẹp hình thể, sinh đông.

Đời Ôta là đời trà trong buổi hoàng hôn, nàng như tia sáng cuối loé lên trước khi tắt, nhưng hồn trà không đi được, cứ về trong chén. Trà và chén, như vết môi và con người, chẳng khác gì tác phẩm nghệ thuật. Người ta có thể bỏ bê trà, chén trong bóng tối, trong ẩm ướt của một trà thất không người. Nhưng hương trà, hồn trà vẫn còn đọng lại nơi miệng chén cũng như dấu vết của tình yêu luôn hiẹn hữu trong tâm hồn người ở lại.Trong tác phẩm chiếc chén uống trà Shinô với vết son môi không còn là hình ảnh lưu giữ những kỉ niệm tình yêu mà còn gắn suy nghĩ của Y.Kawabata về Trà đạo. Y. Kawabata không đơn giản chia sẻ với bạn đọc bằng lời nói mà qua tác phẩm, tác giả gửi một bức thông điệp khẩn thiết: Hãy giữ truyền thống thanh cao đó của người Nhật với vẻ đẹp nguyên thủy, đừng làm nó bị hoen ố.

IV. Nghệ thuật của tác phẩm

1. Ý nghĩa nhan đề

Hình ảnh cánh hạc trắng đã từng xuất hiện trong thơ ca cổ Nhật Bản, gắn với đời sống tâm linh của người dân xứ sở hoa anh đào nói riêng, người phương Đông nói chung như là biểu tượng của sự cao khiết. Việc dùng hình ảnh này như một biểu tượng tạo nên chiều sâu trong sự biểu đạt của cuốn tiểu thuyết và đặt trong thế đối lập với hình ảnh chiếc bớt xấu xí trên ngực trà sư Kakikô, phải chăng chiếc khăn hồng thêu ngàn cánh hạc còn là biểu tượng cho hương trà đã bay đi chứ không chấp nhận sự phàm tục?

“Ngàn cánh hạc” là một biểu tượng đi kèm với biểu tượng cô gái nhà Inamura nhưng chính sự thấp thoáng ấy lại nói lên được nhiều ý nghĩa. Ngàn cánh hạc là điểm sáng lung linh duy nhất trên bức tranh u buồn của trà đạo suy tàn. Ngàn cánh hạc cũng là ngọn lửa duy nhất làm ấm áp và thanh lọc tâm hồn bị vây bọc bởi sự nhỏ nhen xung quanh của Kikuji. Ngàn cánh hạc, do vậy, là biểu tượng làm bừng sáng một chút hi vọng giữa không khí ảm đạm của cả tiểu thuyết. Chọn nó làm tiêu đề tác phẩm, Kawabata muốn gửi gắm một niềm hi vọng thầm kín vào số phận của văn hóa truyền thống Nhật Bản trong buổi giao thời.

“Ngàn cánh hạc” phải chăng là hương trà đã vật chất hoá thành cánh hạc bay đi, để lại cho nhân thế những bụi bặm, cặn bã của cuộc đời mà họ "xứng đáng" được hưởng. Hay chính hương trà ngây ngất ấy cũng chỉ là những cánh hạc phù du, như cái đẹp, như hạnh phúc, như nghệ thuật, như tình yêu, sớm muộn rồi cũng cất cánh bay cao? Không sao biết được. Nghệ thuật của Kawabata luôn luôn kéo ta đến chỗ không biết được ấy, dìm chúng ta trong cõi chưa biết ấy.

2. Ý nghĩa các biểu tượng trong tác phẩm.

Biểu tượng theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (trang 91) là dấu, là hình ảnh biểu hiện. Biểu tượng gần gũi với kí hiệu, ẩn dụ, phúng dụ… Nhưng nếu ký hiệu, ẩn dụ, phúng dụ là những dấu hiệu nhất thời, rời rạc, là những quy ước đơn giản giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, chỉ có tác dụng biểu nghĩa thì biểu tượng có sự “đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức”.

Biểu tượng trong văn học là loại biểu tượng mang tính đa nghĩa và được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật. Nó được xem như là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt để chuyển tải ý đồ sáng tạo của nhà văn. Theo C.G.Jung: “Biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết hay bị che dấu đối với chúng ta” . Theo nghĩa rộng, tác phẩm văn học thì biểu tượng, là một ký hiệu thẩm mỹ mà tác giả gửi đến cho người đọc. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp chúng ta hiểu được những giá trị riêng biệt mà tác phẩm mang lại. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng trong một tác phẩm văn học là một “nhân vật” đặc biệt, được hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là con vật, đồ vật, hình ảnh, hình tượng… gọi chung là các dạng thức biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm văn học. Xét ở góc độ này, biểu tượng là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ sáng tạo của mình. Chúng tôi tiếp cận biểu tượng trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của Y. Kawabata từ góc độ thứ hai.

a) Chiếc khăn thêu Ngàn cánh hạc

Chiếc khăn màu hồng thêu ngàn cánh hạc trong câu chuyện gắn liền với nhân vật Yukikô và là tâm điểm của tác phẩm. Kikuji gặp Yukikô lần đầu tiên trên đường đến dự tiệc trà, điều ấn tượng nhất đối với chàng là chiếc khăn hồng thêu ngàn cánh hạc trên vai cô gái. Chiếc khăn đó là tuy là vật dụng bình thường của Yukikô song nó lại gây sự chú ý đặc biệt của Kikuji. Chàng chỉ gặp Yukikô hai lần nhưng mỗi khi nghĩ đến nàng thì hình ảnh chiếc khăn màu hồng thêu ngàn cánh hạc cứ trở đi trở lại trong tâm trí chàng. Trong tác phẩm, hình ảnh chiếc khăn màu hồng thêu ngàn cánh hạc xuất hiện mười ba lần ở những không gian và thời gian khác nhau. Nó xuất hiện ở thế đối sánh giữa phàm tục và thanh cao, giữa cái ti tiện, nhỏ nhen, ích kỉ với sự trong sáng, thánh thiện, thoát tục. Mỗi lần hình ảnh ấy xuất hiện, câu chuyện như tươi sáng hơn. Chính vì vậy, lúc nào đối mặt với cái xấu, cái ác, cái ti tiện, nhỏ nhen, ích kỷ thì dưới mắt Kikuji lại hiện ra hình ảnh diệu kỳ ấy: “Trước mắt chàng, cô gái nhà Inamura (tức Yukikô) trở lên đẹp lạ thường, nàng bỗng nổi bật bên trên những mẩu chuyện nhỏ nhen của những người đàn bà đứng tuổi đang vây quanh chàng” . Có lúc, “chàng tưởng như ngàn cánh hạc nhỏ và trắng tung tăng bay quấn quýt xung quanh người nàng” . Ngay sau khi đã dành tình cảm cho Fumicô - một thứ tình yêu luôn chập chờn giữa thực ảo, giữa hình ảnh người tình quá cố và con gái bà ta thì Kikuji bao giờ “cũng nuôi ảo tưởng là cô gái nhà Inamura đang đi dạo đâu đó dưới bóng hàng cây bên đường với chiếc khăn màu hồng có vẽ ngàn cánh hạc trong tay. Chàng có thể nhìn rõ ràng bầy hạc trắng và chiếc khăn đó” . Quả thực, hình ảnh cô gái với chiếc khăn màu hồng có thêu ngàn cánh hạc trong tác phẩm đã cứu rỗi linh hồn Kikuji, nhất là khi chàng vướng vào mối tình oái oăm, trầm luân với bà Ôta - người tình của cha chàng. Kikuji đã yêu trong sự dằn vặt cho đến khi bà Ôta chết. Khi đó, không hiểu sao trong đôi mắt mệt mỏi của chàng: “Bầy hạc trắng in trên chiếc khăn choàng của cô gái nhà Inamura bay ngang qua vầng trời chiều” và từ đó hình ảnh kỳ diệu ấy không còn hiện diện trong chàng nữa. Như thế, chiếc khăn màu hồng có thêu ngàn cánh hạc trong tác phẩm đã trở thành biểu tượng mang ý nghĩa đặc biệt. Trước thực tại luôn có sự giằng xé giữa cái phàm tục và thanh cao, nhân vật khó có thể thoát ra khỏi sự bủa vây của những cám dỗ đời thường thì cũng có những phút giây họ hướng thiện. Và chiếc khăn màu hồng thêu ngàn cánh hạc là biểu tượng để nhà văn thể hiện điều đó. Nếu như Y.Kawabata chỉ sử dụng độc thoại nội tâm (một cách mà các nhà văn thường sử dụng) để thể hiện sự giằng xé, vùng vẫy của nhân vật trong nỗ lực thoát khỏi những điều tầm thường, vươn tới những điều tốt đẹp thì tác phẩm khó tạo nên ấn tượng độc đáo. Ngoài ra, tác giả sẽ phải tốn rất nhiều “đất diễn” để thể hiện quá trình nhân vật đi tìm sự thanh thản, nhẹ nhõm trước những mệt mỏi và hệ luỵ của đời thường. Từ đó, ta hiểu tại sao Y.Kawabata dùng hình ảnh này để đặt tên cho tác phẩm của mình.

b) Chiếc chén shino với vết son môi của bà Ôta

Bên cạnh hình ảnh chiếc khăn màu hồng có thêu ngàn cánh hạc, chiếc chén uống trà Shinô­ với vết son môi cũng trở thành biểu tượng độc đáo. Trong tác phẩm, nó xuất hiện mười một lần, chủ yếu qua các đối thoại giữa Kikuji và Fumicô. Chiếc chén này ra đời từ một lò gốm nổi tiếng và gắn với bàn tay tài hoa của một nghệ nhân có thật trong lịch sử Nhật Bản. Nó có tuổi đời trên 300 năm và đã gắn với nhiều tiệc trà. Trong tác phẩm, chiếc chén đó là vật sở hữu của bà Ôta. Lúc còn sống, bà dùng nó uống trà hàng ngày, vành chén đã đỏ thẫm theo thời gian và bà cho đấy là do son môi của mình dính vào. Vết son môi trên chiếc chén không chỉ gắn với tình yêu cái đẹp của người Nhật (yêu cái cũ mòn, rêu phong) mà còn là dấu vết của thời gian, của tình yêu. Khi mẹ mất, Fumicô đem tặng nó cho Kikuji và vì mỗi khi nàng nhìn nó thì hình ảnh người mẹ luôn hiện diện. Khi Kikuji có chiếc chén trong tay, chàng lại luôn hình dung về bà Ôta. “Khi chàng nhìn vào tác phẩm tuyệt vời trước mắt (chiếc chén), chàng thấy một cách mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào khác cái tuyệt phẩm mà bà Ôta là hiện thân” . Fumicô không thể chịu được điều đó và đỉnh điểm bi kịch của mối tình ngang trái ấy là việc cô quyết định đập vỡ chiếc chén Shinô trong trạng thái vô cùng phấn khích và xúc động. Chứng kiến việc đó, Kikuji suốt đêm không ngủ, chàng bước ra thấy: “Chiếc chén Shinô bị đập vỡ nằm trên một phiến đá trước cái bể nước bằng đá. Chàng xếp bốn mảnh lớn thành hình cái chén. Miệng chén thiếu mất một miếng lớn bằng ngón tay” . Kikuji đã bật khóc khi nhặt những mảnh vỡ đó. Rõ ràng, chàng rất muốn lưu giữ hình ảnh về bà Ôta trong khi lại đang yêu con gái của bà.

Hành động đập vỡ chiếc chén Shinô như một phán quyết về nghệ thuật truyền thống đã được nâng lên thành đạo của người Nhật: Hoặc gìn giữ nó như vẻ đẹp thuần phác hoặc từ bỏ nó chứ không thể xen sự phàm tục vào.Chính vì thế, trong Ngàn cánh hạc, chén Shinô không chỉ là một đồ vật nữa mà còn là một thực thể sống động, một nhân chứng vô ngôn cho cuộc tình đầy bi kịch song vô cùng cao đẹp của những con người luôn khát khao được sống trong tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối.

Hai đồ vật chiếc khăn hồng thêu ngàn cánh hạc và chiếc chén Shinô với vết son môi đã góp phần thể hiện ý đồ nghệ thuật sâu sắc của Y.Kawabata. Câu chuyện về Trà đạo, về những mối tình ngang trái, giằng xé rất đời thường dường như ám ảnh hơn qua những biểu tượng trên. Chiếc khăn hồng thêu ngàn cánh hạc đã trở thành biểu tượng cho sự thanh cao, trinh bạch trong hồn người, cho hương trà thanh khiết, cho đẹp vĩnh hằng mà con người luôn hướng tới. Còn chiếc chén Shinô có vết son môi không chỉ là biểu tượng cho truyền thống Trà đạo thanh cao hàng trăm năm của người dân sứ sở Phù Tang mà còn là biểu tượng cho tình yêu luôn hiện hữu như là chỗ dựa tâm linh nâng đỡ con người trong cuộc đời. Vì thế, những biểu tượng độc đáo đó đã gắn với tên tuổi Y.Kawabata và làm nên sức sống mãnh liệt của tiểu thuyết Ngàn cánh hạc . Chúng minh chứng cho quá trình lao động nghệ thuật hết mình và nỗ lực vượt lên giới hạn biểu đạt của ngôn từ để mở ra những chân trời liên tưởng mới lạ, đầy mơ hồ và huyễn hoặc.

c) Chiếc bình Shino

Hình ảnh thứ ba là chiếc bình sứ shino của bà Ôta, người tình cuối cùng của ônh thân sinh ra Kikuji. Khi ông còn sống, bà Ôta đã dùng chiếc bình này để pha trà đối ẩm với ông. Sau khi ông mất và cũng theo đà mai một của trà đạo, bà Ôta dùng làm bình cắm hoa. Chiếc bình sứ shino chứng kiến những tang biến của đời bà nhưng nó cũng mang số phận truân chuyên của đời trà đến hồi mai một. Sau khi bà Ôta chết thì Fumiko đã tặng lại chiếc bìng đó cho Kikuji.

Chiếc bình Shino là một cổ vật quý giá mà Chikako luôn “ thèm muốn” có được nó. Nó có lịch sử lâu đời, không chỉ là một kiệt tác nghệ thuật mà chiếc bình Shino còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhân học. Đúng như lời của chàng Kikuji, cuộc đời của con người chỉ là ngắn ngủi, thoáng chốc so với lịch sử lâu đời của những dụng cụ trà đạo đó. Chiếc bình Shino là một hình ảnh biểu tượng cho lịch sử trà đạo lâu đời đã được ghìn giữ và nâng niu nhưng giờ đây nó hiện hữu trong không gian trà đạo không còn ý nghĩa nữa. Xây dựng hình ảnh mang giá trị lịch sử gắn với vể đẹp truyền thống của đất nước Nhật Bản, Kawabata không chỉ thể hiện được sự am hiểu tường tận gốc rễ văn hóa của đất nước mình mà đó còn là sự nuối tiếc, hoài vọng về những giá trị của một thời đã xa.

d) Cái bớt của bà Chikako

Có thể nói Kikuji và Chikako là hai nhân vật trung tâm của thiên tiểu thuyết. Qua cái nhìn của Kikuji thì Chikako Kurimoto là một người đàn bà đã rải chất độc vào trong tâm hồn chàng ngay từ khi Kikuji mới chỉ là một cậu bé 8 - 9 tuổi. “ Có lẽ dạo chàng mới độ tám, hay chín tuổi thì phải. Một lần cha mang theo chàng đến thăm Chikako và họ gặp cô ta trong phòng điểm tâm. Chiếc kimono của cô ta bỏ ngỏ. Cô ta đang ngồi cắt những sợi lông mọc trên cái bớt nơi ngực bằng một chiếc kéo nhỏ. Cái bớt lớn bằng bàn tay che tới nửa ngực bên trái xuống tuốt đến chỗ trũng giữa hai vú. Mớ lông mọc trên cái bớt màu tím than dường như khá rậm và cô ta đang cắt bớt đi”.

Cái bớt của Chikako đã đeo bám Kikuji ngay cả khi cành đã trưởng thành vẫn không thể nào quên và thoát ra khỏi sự ám ảnh đó. Có thể nói cái bớt của Chikako là một hình ảnh mang tính biểu tựợng, đó là hiện thân của sự nhơ nhớp, phàm tục. Cái bớt xấu xí đó cũng như bản chất của Chikako: ghen gét, mưu toan, đố kị. Với một cá tính Nhật Bản vốn ưa chuộng cái đẹp, sự thanh khiết thì sự tồn tại của nó trong thân thể của một người phụ nữ, hơn nữa đó lại là một vị trà sư thì có lẽ không chấp nhậ được. Hình ảnh cái bớt của Kurimoto cúa lặp đi, lặp lại trong tác phẩm với một tần số lớn và nó thường xuất hiện trong không gian của trà đạo và cũng thường đồng hiện với hình ảnh đẹp đẽ là người thiếu nữ với chiếc khăn tay ngàn cánh hạc nhà Inamura. Chính cái bớt đó hiển nhiên khiến Chikako “ có mặc cảm và điều đó càng làm cho cô ta đáng ghê tởm hơn”.

Cái bớt của Chikako là một hình ảnh sáng tạo độc đáo, nó không chỉ ám ảnhchàng Kikuji mà nó còn ám ảnh cả người đọc, khiến chúng ta phải suy nghĩ. Phải chăng khi xây dựng hình ảnh cái bớt xấu xí trên thân thể của một trà sư, Kawabata muốn nói về một nền văn hóa trà đạo Nhật Bản đang trên đà suy vi, bị “nhiểm khuẩn” và mất đi những giá trị vốn có.

3. Nghệ thuật xây dựng các hình ảnh đối lập.

Từ điển bách khoa toàn thư (wikipedia) giải thích rất ngắn gọn về ý nghĩa của hai từ tương phản và đối lập: “ Tương phản: trái nhau. Đối lập: trái ngược hẳn nhau”. Trong văn học, thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối lập được dùng để xây dựng những hình ảnh, chi tiết, hình tượng, giọng điệu... có tính chất, đặc điểm hoàn toàn trái ngược nhau; nhằm nhấn mạnh một tư tưởng, nội dung hay một quan điểm nào đấy. Tuy nhiên, sự trái ngược về bản chất ấy phải được xét cho những đối tượng trên cùng một bình diện và theo một tiêu chí nhất định, điều đó mới khiến nó có ý nghĩa.

Có thể nói, những hình tượng là biểu tượng trong tiểu thuyết Kawabata phần lớn đều tồn tại trong một thế đối lập, tương phản với bản thân nó hoặc với hình tượng khác cùng dạng.

Cô gái với chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc cũng có mặt trong tác phẩm ít ỏi nhưng Yokiko với vẻ đẹp rạng rỡ, ngời sáng ấy đã làm bừng lên trong tâm hồn Kikuji một chút ấm áp. Kikuji cũng xao động đến não lòng trước vẻ đẹp của sự hoang mang và tuyệt vọng của Fumiko. Cái đẹp của Fumiko là cái đẹp của ánh hoàng hôn sắp tắt, nó gợi một niềm tuyệt vọng nhưng là sự tuyệt vọng đầy mĩ cảm. Hai hình ảnh cái đẹp này đối lập với nhau một cách đồng hiện.

Tiếp theo đó là hai cặp hình ảnh đối lập tương phản đó là chiếc khăn tay có in hình cánh hạc gắn với hình ảnh Yukiko xinh đẹp và hình ảnh cái bớt gớm ghiếc cùng với một vị trà sư vô đạo. Hai hình ảnh đối lập này luôn luôn xuất hiện trong tâm trí chàng Kikuji. Cứ mỗi lần cái bớt của Chikako xuất hiện trong đầu Kikuji thì hình ảnh chiếc khăn tay ngàn cánh hạc lại thấp thoáng hiên ra như để cứu rỗi tâm hồn Kikuji, như để xua đuổi những sâu sa, bẩn thỉu ra khỏi trí óc chàng. Cái đẹp tuyệt mĩ không thể cùng tồn tại đồng hiện cùng sự sấu sa, phàm tục. Không gian chứa đựng cái đẹp lại càng không thể chứa đựng được sự gio bẩn. Xây dựng cặp hình tượng đối lập này Kawabata đã cho ta thấy cái đẹp thanh thoát thì mong mah như sưong khói, còn những ghi sấu sa, bẩn thỉu của cuộc đời thì cứ lồ lộ trước mắt. Một nền văn hóa cùng với những giá trị truyền thống đang lụi tàn, qua đó nhà văn cò thể hiện nỗi niềm tiếc nuối những giá trị xưa cũ.

Trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc” xét đến sự tồn tại của những dụng cụ pha trà như chiếu bìng Shino, chiếu chén uống trà Shino và cặp chén Raku... là nhũng dụng cụ dùng trong các tiệc trà có lịch sử lâu đời gắn liền với tên tuổi của những vị trà sư nổi tiếng của Nhật Bản nhưng tất cả xuất hiện trong tác phẩm ở những không gian không tương xứng. Đó được xem là những bảo vật được lưu truyền từ thế hệ này sang tế hệ khác của những người tâm huyết với trà đạo nhưng lại được trao truyền cho một thế hệ trẻ đang quay lưng lại với trà đạo.

Trong tác phẩm Kawabata còn xây dựng sự đối lập giữa thời gian quá khứ và hiện tại, đó là mối tình quá vãng của ông Mitani và bà Ôta luôn ám ảnh những người trong cuộc ở hiện tại. Ngoài ra đó còn là sự đối lập giữa hai không gian, hai bức tranh tối và bức tranh sáng. Nếu bức tranh tối được bao trùm bởi một không gian trà đạo u tối, của những ám ảnh về cái bớt của Chikako và những mối tình đam mê, tội lỗi thì điểm sáng duy nhất của bs tranh đó là người con gái nhà Inamura và chiếc khăn tay có in ngàn cánh hạc. Đó là điểm sáng duy nhất soi rọi vào bức tranh tăm tối của tác phẩm, xóa đi vẻ ảm đạm, u buồn của tác phẩm.

4. Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm “ Ngàn cánh hạc”

a) Điểm nhìn trần thuật

Thủ pháp đặc trưng nhất của Kawabata trong tiểu thuyết “Ngàn cánh hạc” là điểm nhìn phân tán. Đó là sự di chuyển điểm nhìn của người kể chuyện vào các nhân vật và sự phân chia điểm nhì đó giữa các nhân vật bình đẳn với nhau vàcác nhân vật có một điểm nhìn ngang hàng với tác giả.

b) Người kể chuyện

Người kể chuyện trong văn bản là một nhân vật hư cấu do tác giả tạo ra nhằm thực hiện hành vi trần thuật. Trong tiểu thuyết “Ngàn cánh hạc” của Kawabata là người kể chuyện ẩn tàng ở ngôi thứ ba. “Ngàn cánh hạc” là một tiểu thuyết đa thanh, trong đó người kể chuyện đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện một cách khách quan để cho các nhân vật gặp gỡ, đối thoại với nhau để nhìn nhận về nhau và tự bộc lộ bản thân mìn. Người kể chuyện trong “Ngàn cánh hạc” trao điểm nhìn chô cácc nhân vật, để các nhân vật ttồn tại tong tác phẩm bình đẳn với nhau vaf ngang hàng với tác giả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Yasunari Kawabata - Tuyển tập tác phẩm, NXB lao động.

2. Y.Kawabata (2001), Tuyển tập, Ngô Quý Giang, Ngô Văn Phú, Vũ

Đình Bình, Võ Đình Phòng, Trùng Dương (dịch), Nxb Hội Nhà văn.

3. Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( Chủ biên ), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

4. Trâng Đình Sử ( Chủ biên ), Giáo trình lí luận văn học, tập 2, NXB ĐHSP.

5. Dương Hoàng Hạnh Nguyên ( ĐHSP Huế ), Tiểu luận: “ Điểm nhìn phân tán - Thủ pháp nghệ thuật độc đáo của Yasunari Kawabata qua tiểu thuyết Ngàn cánh hạc”.

6. Lê Thị Hường, Kawabata Yasunari - “người lữ khách ưu sầu” đi tìm cái đẹp, Tạp chí Sông Hương.

7.Trần Tố Loan, Biểu tượng trong tiểu thuyết "Ngàn cánh hạc" của Y.Kawabata, Hội nhà văn Việt Nam.

8. Goole.com.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét