foto

foto
anh ban be va gia dinh

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

Những khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930

Trước thế kỉ XX văn học Việt Nam giống Văn học một số nước Đông Á , chịu ảnh hưởng xâu sắc tư tưởng nghệ thuật của văn hóa Trung Quốc. Văn học chính thống do nhà nho viết, sinh hoạt văn chương thu hẹp trong giới trí thức nho sĩ. Lúc này chưa có nhà in, tác phẩm văn chương không phổ biến rộng rãi mà mà chủ yếu là sang tác cho nhu cầu cá nhân, tặng bằng hữu…Chưa có nhà văn chuyên nghiệp, viết văn chua trở thanh một nghề trong xã hội. Văn học thuật, văn giáo huấn được coi trọng hơn văn nghệ thuật. Văn thơ chữ Hán được coi trọng hơn chữ Nôm. Thơ được tôn trọng hơn văn xuôi.Văn chương có tính quy phạm, niêm luật chặt chẽ. Từ đề tài, nhân vật, cốt truyện đến hình ảnh, ngôn ngữ và cách tả cảnh, tả người, tả không gian, thời gian… đều nằm trong một hệ thống ước lệ.Ước lệ trở thành một nếp tư duy quen thuộc của người sáng tác văn thơ và vì vậy nó hạn chế khả năng bộc lộ cái tôi cá nhân, cũng như cá tính độc đáo của người sáng tạo.

Văn học Việt Nam thoát khỏi những rang buộc, những quy phạm của văn học Trung đại, đi vào hướng hiện đại hóa.Qúa trình hiện đại hóa văn học Việt Nam là một quá trình với những nét chấm phá ban đầu, dần tạo nên những vùng, những mảng mờ trong tư tưởng, tư duy nghệ thuật với những nỗ lực, cách tân to lớn cuối cùng làm hiện lên khuôn mặt mới, hiện đại văn học.

Khái niệm tiểu thuyết trước 1930 bao gồm cả truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài. Ở những thời kì trước, ở nước ta, tiểu thuyết đã tồn tại, được viết bằng chữ Hán với kết cấu theo lối chương hồi. Đến những năm đầu thế kỉ XX tiểu thuyết văn xuôi Tiếng Việt bắt đầu hình thành. Những năm cuối thế kỉ XIX xuất hiện truyện văn xuôi quốc ngữ viết theo hình thức tiểu thuyết hiện đại phương Tây: “ Truyện thầy Lazaro Phiền ( 1887) của Nguyễn Trọng Quản. Đến đầu thế kỉ XX số lượng các truyện có tần số xuất hiện nhiều hơn. Năm 1910 tác phẩm “ Hoàng Tố Anh hàm oan” được xuất bản, tác phẩm phản ánh đời sống trụy lạc của một gia đình giàu có. Năm này cũng xuất hiện những tác phẩm văn xuôi của Trương Duy Toản ( Tiết phụ gian truân, Phan Yên ngoại sử), Trần Nhật Thăng ( Kim Lam Liên). Và đến những năm 20 thì tiểu thuyết của nước ta mới bắt đầu được định hình. Năm 1919 Nguyễn Chánh Sắt viết Nghĩa hiệp kì duyên, sau đó nhiều tác phẩm khác được xuất bản ở Nam Bộ, tạo thành phong trào viết tiểu thuyết khá mạnh mẽ. Các tác giả tiêu biểu như: Hồ Biểu Chánh, Tân Dân Tử, Nguyễn Chánh Sắt,…và có thể nói các nhà văn Nam Bộ đã đi tiên phong trong việc thử nghiệm thể loại tiểu thuyết.

Tiểu thuyết là dấu hiệu quan trọng của văn học hiên đại. Trước chúng ta chỉ có một tiểu thuyết văn xuôi bằng chữ Hán, còn một số nũa là truyện thơ viết bằng chữ Nôm. Nhu cầu của công chúng mới bây giờ là đọc truyện bằng chữ Quốc ngữ, mô tả cuộc sống hiện tại với những câu chuyện hàng ngày, gần gũi với cuộc sống. Họ muốn biết những vấn đề, những tâm trạng con người trong xã hội để soi chiếu vào mình, tìm cho mình một cách ứng xử, một cách sống.

Tiểu thuyết xuất hiện và được hiện đại hóa dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết Phương Tây, trong một khoảng thời gian ngắn. Từ bỏ những đề tài trung hiếu, tiết nghĩa, chú ý đến những điều đang xảy ra xung quanh, những chuyện đời tư, những vấn đề thời sự; nhân vật trở thành trung tâm miêu tả và tâm lí nhân vật trở thành đối tượng chủ yếu để khai thác , thời gian nghệ thuật đa tuyến, đa chiều, kết cấu mở, kết thúc bỏ ngõ, ngôn ngữ có tính dân chủ cao, gắn liền với ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam hầu như đã phá vỡ hầu hết những quy phạm cũ, mở ra một hướng mới tự do và phát triển mạnh mẽ hơn.Ngay trong một tác giả cũng thể hiện điều ấy. Nhất Linh từ “ Nho Phong” (1925) đến “ Nắng Thu ”( 1934) “Bướm Trắng”( 1941) đánh dấu sự đổi mới quan niệm nghệ thuật, nội dung tư tưởng, kết cấu hành văn. Nho Phong in bong dáng của truyện thơ truyền thống, được kể theo một trình tự thời gian, hành văn có nhiều đoạn biền ngẫu. “ Nắng Thu” “ Bướm Trắng” tình yêu đã mới, chú ý miêu tả những diễn biến trong tâm hồn nhân vật, miêu tả cảm giác, không gian chuyển dịch, thời gian ngược chiều, mang thi pháp tiểu thuyết hiện đại.

Từ đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết được viết và trước hết nhiều nhất là ở Nam Bộ.Có thể nói, Nam Bộ là mảnh đất xuất hiện những điều kiện cho quá trình đổi mới văn học sớm hơn so với cả nước như chữ quốc ngữ, báo chí, nhà in,...Đây cũng là nơi ra đời cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, “ Truyện thầy Lazarô Phiền” (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Tuy vậy phải đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX trở đi thì nền văn học này mới phát triển mạnh mẽ về số lượng tác phẩm và tác giả. Giai đoạn này phải kể đến các nhà văn như: Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Bửu Đình, Trần Chánh Chiếu, Phú Đức, Tân Dân Tử, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Bửu Mọc, Nguyễn Ý Bửu ..., đặc biệt là Hồ Biểu Chánh.

Tiểu thuyết Nam Bộ hướng về những vấn đề phong phú trong xã hội như vấn đề phong tục, vấn đề tâm lý xã hội, hiện thực xã hội, vấn đề lịch sử, vấn đề đời tư, ...Mặt khác, yêu cầu của công cuộc đổi mới nền văn học không chỉ dừng ở mức đổi mới về nội dung mà còn là sự đổi mới về hình thức thể hiện, tức là đòi hỏi sự đa dạng về chủng loại. Vì vậy tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này đã phát triển rầm rộ theo nhiều khuynh hướng, không những vậy mà còn có nhiều chủng loại. Khuynh hướng tiểu thuyết thế sự với những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh như: Con nhà giàu, Con nhà nghèo, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa, Khóc thầm...Khuynh hướng tiểu thuyết có tính chất trinh thám tiêu biểu là Phú Đức với: Châu về hiệp phố, Lửa lòng, Tình trưòng huyết lệ ...Biến Ngũ Nhy có Kim Thời dị sử. Khuynh hướng tiểu thuyết nghĩa hiệp với những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Chánh Sắt như: Nghĩa hiệp kỳ duyên, Một đôi hiệp khách, Man hoa kiếm hiệp ... Khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử là một khuynh hướng nổi bật nhất cả về số lượng tác phẩm, tác giả, cũng như thành tựu: có một số nhà văn Nam Bộ chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, ngay những người không chuyên về đề tài này cũng viết ít nhất một vài cuốn.

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân ta. Những năm đầu thế kỷ XX, ở Nam Bộ có nhiều cuộc nổi dậy, tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long (1913). Nhiều cuộc bãi công diễn ra sôi nổi và quyết liệt. Cuộc đình công năm 1912 của công nhân Ba Son, mấy cuộc mít tinh lớn đã nổ ra ở Sài Gòn để phản đối Pháp trục xuất những người miền Trung và miền Bắc hoạt động chính trị ra khỏi Nam Kỳ, tố cáo âm mưu chia rẽ và chia cắt lãnh thổ của thực dân Pháp. Năm 1925, toàn quyền Varenne tới Sài Gòn. Nhân dân đã đứng lên đòi yêu sách dân chủ. Cùng năm đó, Pháp bắt cóc Phan Bội Châu ở Thượng Hải và bí mật đưa về nước, định ám hại cụ. Cả nước dấy lên phong trào đưa ân xá Phan Bội Châu. Phong trào đang sôi sục thì cái chết của Phan Chu Trinh ngày 24 – 3 - 1926 lại gây nên xúc động mạnh cho nhân dân cả nước, dấy lên phong trào để tang Phan Chu Trinh. Ở Sài Gòn hơn 14 vạn người đi đưa đám tang, biến thành cuộc biểu tình có trật tự, một cách bày tỏ thái độ chính trị của nhân dân với bộ máy thống trị. Tiếng vang từ những sự kiện đó đã phả vào đời sống xã hội và văn học một luồng sinh khí mới làm tỉnh hẳn bộ mặt xã hội Việt Nam, khi mà hình ảnh của các sĩ phu yêu nước đột ngột hiện về sau bao nhiêu năm bị tù đày. Những người cầm bút cảm thấy cần có một hướng đi mới trong sáng tác, ngoài những đề tài quen thuộc. Đó là mong muốn được nói lên khát vọng của cả một dân tộc, muốn tìm lại “hồn nước” một thời được cất lên từ các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thời đại, trong điều kiện bấy giờ, để tránh sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù, không còn cách nào khác là lấy chuyện lịch sử ngày xưa để nói bóng nói gió sang chuyện đương thời. Tái hiện quá khứ hào hùng của dân tộc là để ấp ủ lòng yêu nước, nhắc nhở quốc dân đồng bào đừng bao giờ quên quá khứ, và phải làm điều gì đó cho hiện tại, cái việc mà ông cha đã làm. Như vậy sự ra đời và phát triển thành một khuynh hướng nổi bật của tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ có cơ sở khách quan từ yêu cầu thúc bách của đời sống đấu tranh sôi động của dân tộc, đồng thời tiểu thuyết lịch sử cũng có tác động không nhỏ trong việc cổ vũ động viên nhân dân đấu tranh dành độc lập.

Bên cạnh đó, tiểu thuyết lịch sử ra đời cũng có nguyên nhân từ yêu cầu đa dạng về thể loại trong tiến trình hiện đại hóa văn học. Một mặt khác không kém phần quan trọng, đó là sự phản ứng lại hiện tượng dịch thuật truyện Tàu. Tính từ năm 1904 cho đến năm 1910 bước đầu đã thấy có 46 truyện Tàu được dịch và lưu hành ở Nam Bộ. Theo Địa Chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ cho đến năm 1932 đếm sơ có gần 30 dịch giả có sách in, họ dịch trên 70 quyển khác nhau. Trong số những truyện được dịch, không phải cuốn nào cũng tốt cả về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật: “ Người đọc ở mọi tầng lớp, và họ tiêu thụ ở những mức độ khác nhau. Người ta làu thông tên tuổi của những anh hùng Trung Quốc có thật hay tưởng tượng nhiều hơn là tên tuổi các anh hùng liệt nữ Việt Nam”. Trước tình hình đó, các nhà văn Nam Bộ đã phản ứng lại bằng cách sáng tác tiểu thuyết lịch sử. Họ kêu gọi đồng bào bỏ những điều nhảm nhí mê tín dị đoan để cho dân trí kịp duy tân. Trương Duy Toản trong lời tựa cuốn tiểu thuyết lịch sử “Phan yên ngoại sử – tiết phụ gian truân” (1910) đã viết : “Theo trí mọn của tôi nay phải bỏ những Lê Huê pháp thuật, Kim Đính thần thông, Khương Thương phong trần, Thế Hùng tróc quỷ, Chung Ly lập trận, Bồ Tát cứu Binh, Đại Thánh loạn thiên cung, Anh Đăng về trên cảnh...mà sắp bày những chuyện chi mới, bây giờ mặc dầu, miễn là cho lánh khỏi cái nẻo dị đoan và báo ứng phân minh thì đủ rồi”. Các nhà văn thấy rằng người đọc ai cũng thông làu tên tuổi những nhân vật lịch sử Trung Quốc, trong lúc lịch sử Việt Nam đâu có kém gì? Tại sao không viết lịch sử Việt Nam cho đồng bào xem. Nhà văn Hồ Biểu Chánh trong “ Nặng gánh cang thường”(1930) cho rằng: “Trung Hoa có sử rồi có truyện nữa. Việt Nam cũng có sử há lại không có truyện hay sao? Aáy vậy, một bộ truyện An Nam ví dầu không giúp vui cho độc giả được đi nữa thì cũng biên chép một đoạn sự tích của nước mình, làm như thế tưởng có lẽ không phải là một việc làm vô ích”.

Các nhà văn không chỉ nói không mà họ còn chứng tỏ bằng việc sáng tác những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử lấy đề tài từ lịch sử dân tộc, thể hiện một tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống dân tộc, góp tiếng nói vào phong trào đấu tranh của nhân dân.

Như đã nói, tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ ra đời một mặt do yêu cầu thực tế của đời sống dân tộc, mặt khác là do yêu cầu của sự đa dạng hoá về đề tài và chủng loại trong tiến trình hiện đại hoá trong văn học, cộng với một hiện tượng hiếm thấy trong lịch sử văn học là sự phản ứng vẫn không có gì đổi mới lắm so với văn học truyền thống. Tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ còn chịu ảnh hưởng lớn của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa từ ngôn ngữ, kết cấu cho đến cách xây dựng nhân vật, mặc dầu có một số cách tân về nghệ thuật nhưng vẫn không đáng kể. Nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại xuất hiện trong “Truyện Thầy Lazarô Phiền”, đến đầu thế kỷ XX vẫn chưa được kế thừa và phát triển thêm. Điều này cũng dễ dàng lý giải, những gì Nguyễn Trọng Quản làm đã qúa mới mẻ, quá sớm so với thực tế đương thời. Văn học 30 năm đầu thế kỷ XX là thời kỳ vận động chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học cận hiện đại, vì vậy nó có những bước quá độ, khập khiễng và dích dắc, khiến cho bây giờ nhìn lại, thấy có nhiều điều dường như “bảo thủ”, “trì trệ” so với yêu cầu đổi mới ngày càng nhanh của bản thân nền văn học. Nhưng đó là một tất yếu, văn học không thể ngay lập tức biến đổi hoàn toàn. Bởi cái mới không phải dễ dàng được chấp nhận, khi mà truyền thống văn học cũ đã ăn sâu vào tâm khảm của nhà văn cũng như công chúng. Điều này lý giải sự kế thừa những yếu tố truyền thống cũ của văn học dân tộc trong thời kỳ mới, đặc biệt là văn học Nam Bộ. Những người cầm bút ở Nam Bộ phần lớn hấp thụ nền Tây học, nhưng mặt khác họ cũng có quá trình theo nho học, mặc dầu có những cố gắng “vượt thoát” ra khỏi những quy phạm của văn học truyền thống, nhưng không triệt để. Về phía khách quan, yêu cầu của thực tế sáng tác đòi hỏi văn học hướng tới tầng lớp bình dân là những người lao động bình thường trong xã hội, vốn đã quen thuộc với đề tài “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, “ở hiền gặp lành” của văn học truyền thống. Tâm lý phóng khoáng, thích phiêu lưu mạo hiểm, trung thực nghĩa khí, là những vấn đề phản ánh trong nội dung của truyện Tàu. Điều đó cho thấy tại sao lại có phong trào đọc tiểu thuyết Tàu rộng rãi như vậy ở Nam Bộ, những truyện này phần lớn là tiểu thuyết lịch sử. Trong văn học quá khứ, một số tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán của Việt Nam cũng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, chẳng hạn như tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”. Đến nay, do yêu cầu của thực tế, các nhà văn Nam Bộ mượn lại hình thức đó cũng không có gì là lạ cả, điều quan trọng là nó đáp ứng được “khẩu vị” của độc giả, vừa với khả năng người cầm bút và điều đáng quý là nêu cao tinh thần tự hào về lịch sử dân tộc. Bao nhiêu đó cũng đủ để tiểu thuyết lịch sử làm tròn được sứ mệnh lịch sử của nó rồi. lại làn sóng dịch thuật ồ ạt Truyện Tàu. Dầu vậy, sự phản ứng đó biểu hiện bằng sáng tác chỉ ở mức độ đổi mới về nội dung phản ánh chứ về mặt hình thức thể hiện

Nhìn chung tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ có hai dạng chính, xuất hiện ở hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiểu thuyết lịch sử có tính chất “ngoại sử”. Khi sáng tác, lịch sử chỉ được dùng như cái nền để tác giả đi sâu vào miêu tả cuộc sống đời tư của cá nhân, của con người cụ thể không có thật trong lịch sử. Tiêu biểu cho loại này là tác phẩm “Phan yên ngoại sử – Tiết phụ gian truân” (1910) của Trương Duy Toản, “ Oán hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử” , “Tô Huệ Nhi ngoại sử” của Lê Hoằng Mưu. “ Oán hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử” lấy bối cảnh thời Pháp đô hộ, miêu tả cuộc đời chìm nổi của Phùng Kim Huê, tác phẩm vẫn chưa kết thúc, nhưng không hiểu sao tác giả không cho in phần tiếp theo? Nhìn chung các tác phẩm tiểu thuyết “ngoại sử” này có nhiều tình tiết, diễn biến, mô tả quãng đời nhân vật, khung cảnh , cốt truyện đều rút ra từ thực tế đương thời. Các tác phẩm vẫn còn sử dụng lối văn biền ngẫu có đối có vần lưu loát, kết thúc có hậu. Đồng thời cũng có dấu hiệu của văn phong hiện đại trong một số đoạn miêu tả, đặc biệt là cuốn “ Oán hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử” có nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn, có tính chất trinh thám, phiêu lưu mạo hiểm, gây hứng thú cao cho độc giả. Tác phẩm lấy thời Tây Sơn – Nhà Nguyễn làm khung cảnh nhưng các nhân vật đều hư cấu, không có thật. Trong tác phẩm này Trương Duy Toản đã gián tiếp cổ vũ động viên cho phong trào chống Pháp của các sĩ phu và nhân dân ta hồi bấy giờ.

Trong những năm 1920 và đầu những năm 1930 tiểu thuyết lịch sử phát triển nhanh chóng với số lượng tác phẩm và tác giả ngày càng nhiều, chất lượng cũng cao hơn trước. Nhiều tác phẩm đã gây được tiếng vang trong công chúng cả nước như cuốn Giọt máu chung tình(1925) của Tân Dân Tử. Tiểu thuyết lịch sử lúc này ít đi theo hướng “ngoại sử” mà chuyển sang hướng “dã sử”. Đặc điểm của tiểu thuyết “dã sử” là: có nhân vật chính là những anh hùng dân tộc, nhân vật có thật trong lịch sử. Sở dĩ có sự chuyển hướng này, theo chúng tôi, có lẽ một phần do xuất hiện nhiều tiểu thuyết dịch của Trung Quốc có tính “dân tộc” như Hồi trống tự do, Hồng Tú Toàn, Trung Hoa quang phục…, cộng với phong trào yêu nước đang dâng cao, phong trào đòi thả các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Hình ảnh của họ gợi nhớ cho nhà văn đến những nhân vật anh hùng trong quá khứ của dân tộc. Viết về họ cũng là một cách bày tỏ thái độ chính trị với hiện tại. Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1924 đến 1932 đã gặt hái được thành quả đáng kể. Một số tác phẩm tiêu biểu : “Việt Nam anh kiệt” (1927), “ Việt Nam Lý Trung hưng” (1929) , “ Vì nước hoa rơi” (1925), “ Lê Triều Lý thị” (1931), “ Tiền Lê vận mạt”, “Một đôi hiệp khách” (1929), “ Việt Nam Lê Thái Tổ” (1929) của Nguyễn Chánh Sắt. “ Nam cực tinh huy” (1924) của Hồ Biểu Chánh, “Giọt máu chung tình”. “ Gia Long tẩu quốc” (1930), “ Gia Long phục quốc” (1932). Tiêu biểu vẫn là Nguyễn Tử Siêu : Tiếng sấm đêm đông (1928), Vua bà Triệu ẩu (1929), Hai bà đánh giặcViệt Thanh chiến sử (1929), Trần Nguyên Chiến Kỷ (1932) ...

Nhìn chung tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này vẫn chưa thoát khỏi hình thức kể chuyện chương hồi, lối kết cấu theo mạch lạc thời gian đơn tuyến, miêu tả ngoại hình để khắc hoạ tính cách nhân vật, người kể chuyện ở ngôi thứ ba, ngôn ngữ theo lối biền ngẫu, kết thúc có hậu. Dầu vậy, đã có sự chuyển biến rõ rệt so với trước đó, đặc biệt là trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Sau những tiểu thuyết “ngoại sử” mang phong cách gần với truyện Tàu, lấy lịch sử làm phông cho nhân vật hoạt động như các tác phẩm: Oán hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử, Phan yên ngoại sử – Tiết phụ gian truân ..., các nhà văn đã chuyển sang hướng “dã sử’. Nhân vật chính của tác phẩm là những nhân vật lịch sử có thật, sống động cụ thể, đầy đủ những tính cách và tình cảm của con người bình thường, với những băn khoăn, những nỗi vui buồn, kể cả những khát vọng cá nhân rất nhân bản của con người. Ngoài ra con người còn được nhìn nhận từ nhiều phạm trù đối lập nhân cách : lòng yêu nước và sự phản bội, độc ác và lương thiện, giữa cao thượng và thấp hèn. Vì vây, nội dung tư tưởng của tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ giai đoạn này không những khích lệ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, mà còn mang đến cho độc giả những bài học về đạo đức, nhân cách hết sức sâu sắc.

Trở về với qúa khứ dân tộc, bằng cảm hứng yêu nước dạt dào, cảm hứng dân tộc sâu sắc, bằng việc ngợi ca những người anh hùng dũng cảm, những người phụ nữ thủy chung, các tác giả muốn đánh thức hiện tại, khích lệ lòng yêu nước, yêu quê hương, phong thổ, lòng tự hào dân tộc. Trong tác phẩm của mình nhà văn đã tận dụng mọi cơ hội để ám chỉ thời cuộc, nói lên sự đau xót đối với đất nước bị giặc ngoại xâm. Bằng tài năng của mình họ đã làm sống lại một số giai đoạn lịch sử. Khắc hoạ được chân dung của nhiều nhân vật anh hùng có thật trong lịch sử. Với tư cách là một chủng loại, tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ đã đem lại cho văn học dân tộc một nội dung tích cực. Trong hoàn cảnh bấy giờ, nó thực sự đã đóng góp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.

Nhà văn là con người sống trong xã hội, chịu sự tác động của quy luật xã hội. Một khi ý thức xã hội phát triển, con người có nhu cầu thẩm định lại những thang bậc giá trị, thì văn học là nơi in dấu ấn đậm nét nhất. Sự thay đổi này thể hiện trong lập trường sáng tác, trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn, trong đó có quan niệm về con người. Nhân vật lịch sử bước vào trang viết của các nhà văn với đầy đủ đặc tính của một con người bình thường. Điều này khiến cho tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn Nam Bộ ít nhiều đổi khác so với lịch sử truyền thống. Bakhtine đã từng phân biệt giữa tiểu thuyết và sử thi cổ điển ở chỗ sử thi thể hiện quá khứ anh hùng dân tộc mà cơ sở của nó là truyền thống, còn tiểu thuyết miêu tả cuộc sống không ngừng biến đổi sinh thành, là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư, yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng. Việc chú ý đến tính chất đời thường của nhân vật lịch sử đã trở thành một quan điểm thẩm mỹ tiến bộ của các nhà văn Nam Bộ, điều này không chỉ nằm trong ý đồ nghệ thuật của các tác giả mà nó còn là một đặc điểm thẩm mỹ của thể loại tiểu thuyết. Đó cũng là điểm mạnh của tiểu thuyết lịch sử so với khoa học lịch sử. Nó vừa là nguyên nhân, cũng vừa là hiệu quả trong quá trình khám phá và nhận thức về con người của tiểu thuyết lịch sử, vốn là một chủng loại nhỏ trong thể loại tiểu thuyết thường hướng tới sự phản ánh đời thường. Bên cạnh miêu tả những nhân vật lịch sử có thật, những nhân vật được nhà văn hư cấu đã chiếm một vị trí đáng kể trong tác phẩm. Đây là một cố gắng lớn trong việc thể hiện những con người bình thường, chân chất bước lên vũ đài lịch sử. Nhìn sâu hơn trong việc miêu tả lý giải con người lịch sử, đặc biệt là người anh hùng, là sự cố gắng thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, cũng có nghĩa là một cố gắng trong quá trình cách tân và hiện đại hoá văn học. Một lý do đơn giản, muốn đổi mới văn học thì trước hết phải đổi mới trong quan niệm nghệ thuật, cụ thể ở đây là quan niệm nghệ thuật về con người.

Trong tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn Nam Bộ mức độ hư cấu nghệ thuật tương đối cao. Mặc dầu còn có những yếu tố của văn học cũ trong xây dựng nhân vật, như xây dựng tính cách nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, giới thiệu tiểu sử, hành động. Bên cạnh đó các tác giả bắt đầu chú ý tới thủ pháp độc thoại nội tâm, miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, hướng tới sự thể hiện đa dạng, phức tạp, phong phú trong cuộc sống của nhân vật. Ngôn ngữ ngày càng giản dị, trong sáng, hướng tới đại chúng độc giả.

Mặc dầu ra đời khá sớm, nhưng tiểu thyết lịch sử Nam Bộ hướng tới đối tượng độc giả bình dân ham đọc sách nên tác giả không mấy chú trọng đến việc gọt dũa ngòi bút để nâng cao tính nghệ thuật của tác phẩm. Do đó, số lượng tác phẩm tuy nhiều, thoả mãn nhu cầu của độc giả, nhưng không cao về chất lượng. Ngược lại, đối tượng của tiểu thuyết lịch sử ở miền Bắc phần lớn là tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, nên đòi hỏi nhà văn phải không ngừng nâng cao chất lượng của tác phẩm, điều đó làm cho các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử ở miền Bắc có thể đứng vững được trên văn đàn mặc dù có sự xuất hiện của Tự lực văn đoàn, phong trào Thơ mới, văn học hiện thực phê phán. Các nhà văn Nam Bộ đã không vượt qua được chính mình để bắt kịp đà tiến lên của lịch sử văn học. Điều này lý giải vì sao giai đoạn sau 1932, tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ ít dần và không còn gây được tiếng vang như giai đoạn đầu thế kỷ. Mặc dầu vậy, những đóng góp của tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ là không nhỏ trong chặng đường khởi đầu của văn chương dân tộc, một di sản cần được chú tâm nghiên cứu và khám phá.

Ở Bắc tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn nhưng lại đạt được nhiều giá trị hơn. Những tác phẩm tiêu biểu như: “Kim Anh lệ sử”( 1924, Trọng Khiêm), “ Tố Tâm” ( 1925, Hoàng Ngọc Phách), “Qủa dưa đỏ” ( 1925, Nguyễn Trọng Thuật), “ Nho phong” ( 1926, Nguyễn Tường Tam). Những cây bút truyện ngắn có : Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, …Nguyễn Công Hoan và Nhất Linh giai đoạn này cũng đã bắt đầu sáng tác

Như vậy, trước những năm 1930, tiểu thuyết nước ta bắt đầu bước lên trên con đường định hình và phát triển. Do sự chi phối của các yếu tố như quan niệm nghệ thuật, quan niệm sáng tác, khuynh hướng thẩm mĩ và thái độ chính trị đã tạo nên những khuynh hướng khác nhau của tiểu thuyết. Dưới đây là sự trình bày về những xu hướng tiểu thuyết chính của nước ta trước những năm 1930.

Văn chương lãng mạn đã bắt đầu với tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, viết 1922, in lần đầu 1925, kể chuyện một đôi thanh niên nam nữ yêu nhau, vì lễ giáo phong kiến mà không được sum họp. Đạm Thuỷ, sinh viên, có nhiều thơ đăng báo, tình cờ gặp Tố Tâm, một thiếu nữ đọc nhiều sách báo, mê thơ văn, và đã cảm phục Đạm Thuỷ trước khi quen chàng. Tình yêu nảy nở giữa hai người ngày càng sâu nặng. Nhưng Đạm Thuỷ đã hỏi vợ, chàng không dám xoá lời giao ước của cha mẹ, còn Tố Tâm thì cũng đã có người xứng đáng dạm hỏi, mặc dù Đạm Thuỷ khuyên bảo, nàng vẫn không nghe lời. Thừa lúc bị bệnh nặng, bà Án, mẹ Tố Tâm, ép buộc, nàng mới nhận lời. Cưới xong, nàng ốm, qua đời chỉ sau ba mươi sáu ngày lên xe hoa. Ngày đưa tang nàng, Đạm Thủy đau xót đến viếng, nhưng không dám xuất hiện. Hôm sau, chàng ra thăm mộ nàng, lấy áo mình đắp lên mộ. Trở lại thăm nhà bà Án, chàng được trao hộp kỷ vật, trong đó có quyển nhật ký của Tố Tâm. Đọc nhật ký, Đạm Thủy thương tiếc nàng, hối hận mà thành bệnh. Anh trai Đạm Thủy biết em suy sụp vì tình yêu nên kịp thời động viên, an ủi. Từ đó, Đạm Thủy quyết tâm học hành, lòng giữ hai điều thiêng liêng: công danh sự nghiệp và mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm.

“Tố Tâm” thể hiện tính chất hiện đại trong việc lựa chọn đề tài chuyện tình yêu trai gái. Tuy là vấn đề muôn thuở nhưng tình yêu trong “Tố Tâm” thuần túy là chuyện yêu đương, không pha tạp, không lồng vào bất cứ mâu thuẫn giai cấp, vấn đề xã hội nào. Có thể xem nó là một bản tình ca ngoài lễ giáo, thật mới mẻ, hiện đại của một lớp thanh niên trí thức rất trẻ, vào những thập niên đầu thế kỷ. “Tố Tâm” xây dựng được cốt truyện khá mới mẻ, hiện đại. Ở “ Tố Tâm”, các biến cố trong truyện đều nhằm khắc họa tính cách hai kiểu nhân vật: một thanh niên trí thức Tây học và một thiếu nữ, con nhà gia giáo, sống theo lối mới. Cốt truyện hấp dẫn không nhờ tình tiết ly kỳ mà vì tâm lý nhân vật được khai thác đến tận cùng những ngóc ngách sâu kín của nó. Nó không theo trình tự truyền thống: gặp gỡ – lưu lạc – đoàn viên. Theo kiểu hiện đại, nó kết thúc bằng bi kịch - bi kịch nhưng không đọng lại dư vị bi quan cho người đọc. Trái lại, bi kịch ấy đã làm rung chuyển nếp cảm, nếp nghĩ mòn xưa của người đọc thời bấy giờ. Sức mạnh ấy, các tiểu thuyết trước và cùng thời với Tố Tâm chưa hề có được. Tác phẩm đặt ra một chủ đề có sức tác động lớn đến người đọc: khẳng định vị trí của cá nhân, quyền sống của con người, trước uy quyền còn khá kiên cố của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt. Tiểu thuyết “Tố Tâm”xây dựng được những hình tượng nhân vật mới mẻ, khá thuyết phục. Trong tác phẩm, các tính cách nhân vật có sự phát triển “tự thân”, như là trong cuộc đời thật. Đạm Thủy là hình ảnh một thanh niên trí thức Tây học còn Tố Tâm là cô gái mới, học chữ Tây, mê sưu tầm văn chương, biết làm thơ. Thân thế ấy khiến họ đến với nhau hết sức tự nhiên. Họ lấy thơ văn, một thú vui tao nhã, làm nhịp cầu giao cảm. Tình yêu của họ, vì thế, cũng trong sáng, thanh cao như thơ văn của họ. Tác phẩm còn mang một kết cấu đặc sắc, so với các tiểu thuyết cùng thời. Kết cấu của Tố Tâm hình thành từ việc đan cài hai mảng hiện tại và quá khứ. Nó phá vỡ tính đơn tuyến quen thuộc. Chuyện chủ yếu thông qua không gian hồi tưởng và thời gian tâm lý. Những khi đôi bạn Đạm Thủy – Tố Tâm gặp nỗi buồn, hay có được niềm hạnh phúc ngây ngất, thời gian vật lý không còn, nhường chỗ cho thời gian tâm lý... Nhân vật Tố Tâm sống theo lối mới, vì cô được học chữ Tây, được tự do tiếp xúc với báo chí, được giao tiếp với bạn bè khác giới. Nhưng Tố Tâm đau khổ tinh thần đến ốm chết, vì cô vẫn phải sống trong một đại gia đình còn giữ nền nếp gia phong,... Hay, hành động của Đạm Thủy, khi chinh phục Tố Tâm, rất hợp suy nghĩ, tâm lý một anh con trai trí thức Tây học: luôn muốn khẳng định mình với người khác phái, hả hê khi chiếm lĩnh được lòng người đẹp,... Ngôn ngữ các nhân vật cũng hợp với tính cách vừa cũ vừa mới của họ. Trình tự tác phẩm được dắt dẫn tự nhiên theo mạch hồi tưởng, cảm xúc và diễn biến tâm lý của nhân vật Đạm Thủy. Nhà văn cũng mạnh dạn đem sự hồi tưởng của Đạm Thủy, những bức thư của Tố Tâm đan xen với câu chuyện hiện tại. Nó tạo nên ấn tượng mới lạ, sức cuốn hút đầy mê hoặc cho độc giả bấy giờ. Vì những lẽ đó, tác phẩm được xem là quyển “tiểu thuyết tâm lý” đầu tiên của Việt Nam. Ngoài ra Tiểu thuyết Tố Tâm thành công ở nghệ thuật miêu tả. Đó là nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật. Mọi trạng thái tâm lý đều có cơ sở, có quá trình hình thành hợp lý. Để gặp và yêu ngay Tố Tâm, tiềm thức của Đạm Thủy đã lưu giữ gương mặt ấy ngay từ nhà quan huyện. Còn Tố Tâm đáp lại ngay chân tình của Đạm Thủy, bởi nàng, vì yêu thơ, mà đã từng yêu người trong mộng,... Đó còn là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, thiên nhiên lần lượt hiện lên vô cùng sống động và rực rỡ. được khắc họa bằng ngòi bút tả chân tài hoa. Nó thoát khỏi mớ công thức tả cảnh ước lệ, đăng đối như ở một số truyện ngắn thời này. Thiên nhiên xuất hiện như một lối thoát cho những tâm hồn lãng mạn. Các nhân vật tìm đến thiên nhiên như để nối kết lại trường giao cảm giữa những tâm hồn lãng mạn đang quá cô đơn, đang bị ý thức hệ phong kiến cầm tù. “Tố Tâm” thực sự khai phá một không gian mới, khoáng đạt, mở hướng cho các tác phẩm sau này xây dựng nên những hình tượng thiên nhiên đầy quyến rũ. Nhìn chung, ngôn ngữ trong “Tố Tâm” là một thứ ngôn ngữ giàu cảm xúc, đầy chất trữ tình, chất thơ,... Nó mang đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ra đời lúc quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai, trình độ tiểu thuyết còn thấp kém, có được một trình độ diễn đạt như thế, “Tố Tâm” đáng được ghi nhận công lao làm giàu chữ quốc ngữ.

Tuy nhiên tác phẩm này cũng có một số hạn chế sau : Về nội dung, tác phẩm chưa xây dựng được điển hình cho một tầng lớp, một giai cấp. Bản thân Đạm Thủy chỉ là một cá nhân cô đơn. Bi kịch của Đạm Thủy thật cá biệt, so với nhân vật ký giả và bạn bè cùng hoàn cảnh xuất thân như anh. Ngoài tình yêu, Đạm Thủy hoàn toàn xa lạ với đời sống chính trị - xã hội, nghĩa là xa lạ với cái bối cảnh trực tiếp gây nên bi kịch cho tình yêu, hạnh phúc của mình. Về nghệ thuật, một số sự kiện trong truyện còn dài dòng, dàn trải, nhất là các đoạn đối thoại, những phần trích dẫn thư từ, hay những câu thơ xướng họa,... Điều này làm giảm đi độ căng của truyện, ít nhiều gây cảm giác nhàm chán cho người đọc. Phần lời văn, thiếu vắng vốn ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, như người đọc đã từng gặp trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Nhiều đoạn văn lại theo vết mòn xưa, dùng câu văn biền ngẫu, quá đăng đối, quá ràng buộc, khiến mạch văn thiếu phần co giãn, linh hoạt, thậm chí lê thê, nặng nề. Đôi chỗ, nhà văn, vì quá nôn nóng muốn dùng văn chương “gây nên một nền luân lý”, do đó, đã biến nhân vật Tố Tâm thành cái loa phát ngôn, thuyết lý cho đạo đức.

So với tác phầm Nho phong của Nguyễn Tường Tam thì Tố Tâm có những bước tiến xa hơn rất nhiều trên nhiều phương diện của thi pháp.

Một tiểu thuyết nữa cũng khá tiêu biểu là : "Kim Anh lệ sử." Tác phẩm đề cập đến cuộc đời lưu lạc, đau khổ ê chề của một người phụ nữ con nhà nề nếp vì gia đình sa sút nên phải nhận lấy cuộc sống ba chìm bảy nổi. Tác phẩm đã nói đến nhiều cảnh ngộ xã hội, nhiều nhân vật có ý nghĩa. Trong một mức độ nhất định ông đã phản ánh được nhiều khía cạnh của hiện thực xã hội đương thời, với một thái độ phê phán khá sắc bén

Tuy nhiên, đây là một tác phẩm còn nhiều hạn chế. Chủ đề bị tản mạn, thiếu tập trung, kết cấu không theo thứ tự thời gian nhưng sự liên lạc giữa các chương, đoạn không chặt chẽ, nhiều đoạn trong tác phẩm còn chịu nhiều ảnh hưởng của tiểu thuyết kiếm hiệp.

Nếu như trước 1930 Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng ở ngoài Bắc thì ở Nam bộ, Hồ Biểu Chánh lại là tác giả được nhiều người ưa thích. Đứng về khối lượng và chất lượng tác phẩm mà nói thì Hồ Biểu Chánh là nhà viết tiểu thuyết đáng chú ý nhất của thời kỳ này. Trong 50 năm làm văn bên cạnh cuộc đời làm quan, ông đã viết trên dưới 60 cuốn tiểu thuyết (trong đó có nhiều bộ hai tập). Sau đây là một số tác phẩm quen biết trước 1930: “ Cay đắng mùi đời” (1925), “ Tiền bạc bạc tiền” (1926), “ Tỉnh mộng” (1927), “Ngọn cỏ gió đùa” (1929), “ Cha con nghĩa nặng” (1929), “ Vì nghĩa vì tình” (1929), “ Kẻ làm người chịu” (1929), “ Khóc thầm” (1930), “ Con nhà nghèo” (1930), “ Con nhà giàu” (1931)… và một số tác phẩm khác như : Thầy thông ngôn, Nợ đời, Cười gượng, Nặng gánh cang thường, Nhơn tình ấm lạnh, Đoá hoa tàn, Chút phận linh đinh, Một đời tài sắc,v.v…

Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã ghi lại được một số nét khá điển hình của hiện thực Nam bộ vào những năm sau đại chiến thế giới lần thứ nhất. Tiểu thuyết của ông bao quát nhiều vùng thành thị và nông thôn rộng lớn của Nam bộ, nhiều kiểu người thuộc đủ các giai cấp khác nhau: quan lại, địa chủ, hội đồng, chủ hãng xe hơi, chủ nhà máy xay, chúa tàu biển, thầu khoán, đại lý, thông ngôn, ký lục, nhà nho gàn dở, hoà thượng chân tu, nghệ sĩ giang hồ, tá điền tá thổ, me tây, gái điếm, v.v…

Hồ Biểu Chánh chia các nhân vật của mình ra làm hai loại : "con nhà giàu" và " con nhà nghèo", những kẻ tàn bạo độc ác và những người coi trọng nhân nghĩa. Trong bọn giàu có, Hồ Biểu Chánh tập trung mũi dùi đả kích vào bọn địa chủ, quan lại phong kiến. Điều này cũng dễ hiểu là vì lúc bấy giờ cơ sở ruộng đất ở nông thôn vẫn ở trong tay bọn địa chủ, bọn hội đồng kỳ hào, đế quốc Pháp lại ra sức củng cố hệ thống vua quan và duy trì ý thức hệ phong kiến để kìm hãm sự phát triển của xã hội ta. Hồ Biểu Chánh đã bóc trần những lớp vàng son giả hiệu, đã lột mặt nạ những thủ đoạn lừa phỉnh nhơ nhớp, ti tiện của bọn địa chủ phong kiến. Ưu điểm nổi bật nhất của nhà viết tiểu thuyết là trong một số trường hợp, ông đã trực tiếp tố cáo những thủ đoạn bóc lột tô tức của bọn địa chủ. Vĩnh Thái tiêu biểu cho những bọn chúa đất bóc lột theo lối cổ điển. Hắn buộc tá điền, nếu mướn 100 công đất thì phải vay 50 đồng bạc hoặc 50 giạ lúa, nếu mướn 200 công thì phải vay gấp đôi. Lúa và tiền đó phải trả lãi hàng năm 60 phân, ai không chịu vay lúa vay tiền, thì hắn lấy lại ruộng đất! Như vậy là hắn đã bóc lột tô tức cùng một lúc và đời đời biến nông dân thành nô lệ gắn chặt với ruộng đất của mình. Để bóc lột cho đầy túi tham, hắn còn đánh thuế thổ trạch, thuế mồ mả và làm đơn xin khẩn hoang để cướp không 100 mẫu ruộng của nông dân ở Mặc Cần Dưng! (Khóc thầm).

Trong phần lớn tác phẩm, Hồ Biểu Chánh tập trung phê phán giai cấp địa chủ và bọn quan lại phong kiến về mặt đạo đức. Đứng ở góc độ này, tác giả tố cáo những hành động thương luân bại lý, những thủ đoạn dâm ô tàn bạo của bọn chúng.

Cũng đứng ở góc độ đạo đức, Hồ Biểu Chánh đã vạch ra được sự tha hoá của đồng tiền trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng tiền làm đảo lộn lương tâm con người, xoá nhoà mọi giá trị chân chính, biến phụ nữ thành món hàng hoá đổi chác trên thị trường ! "Vì tiền bạc bạc tiền mà người đời họ hư danh dự, họ phế nhân nghĩa, họ quên liêm sỉ hết" (Tiền bạc bạc tiền).

Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đối lập với bọn giàu sang quyền thế tàn bạo và độc ác là những con người nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng nhân nghĩa (Lê Văn Đó, hương sư Cu).

Ba Thời tượng trưng cho lòng thương người, tình vợ chồng chung thuỷ (Cay đắng mùi đời). Thằng Được thuyết minh cho tình bè bạn, tình thương yêu cha mẹ, biết ơn thầy học. Ba Cam tượng trưng cho toà án lương tâm và công lý của quần chúng (Ngọn cỏ gió đùa )

Một mặt đề cao đạo đức nhân nghĩa của quần chúng, một mặt hồ Biểu Chánh xót xa trước cảnh khốn cùng của họ trong xã hội cũ. Cai tuần Bưởi gặt lúa được 320 giạ thì phải nộp tô cho địa chủ 300 giạ ! Dầm mưa dãi nắng suốt một năm ròng chỉ được 20 giạ, mà trong đó còn phải đóng lúa, mướn trâu, trả tiền công cấy thì biết sống làm sao? Lê văn Đó là một số cố nông, chỉ vì đói quá, bưng trộm một nồi cám lợn về nuôi mẹ gà, cháu nhỏ mà bị bọn quan lại phạt tù 5 năm. Sau tăng án lên 20 năm; ra khỏi nhà tù mẹ già mấy đứa cháu dại đã chết đói, gia đình ly tán mỗi người một nơi. Cảnh Lê Văn Đỏ nằm mê trong ngục thấy hương hồn những người nông dân nghèo hiện lên tố cáo bọn địa chủ quan lại thật chẳng khác gì một bài "Văn tế thập loại chúng sinh" của những năm đầu thế kỷ XX. Điều đáng quí là có lúc Hồ Biểu Chánh đã đề cao được tinh thần phản kháng của những người lao động. Những hành động phản kháng của những người lao động. Những hành động đấu tranh tự phát ở đây đều nhân danh đạo đức nhân nghĩa, chưa phải là hành động đấu tranh giai cấp một cách có ý thức.

Do những hạn chế về mặt thế giới quan nên khuynh hướng hiện thực trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh là một thứ khuynh hướng hiện thực nửa vời. Đứng ở góc độ đạo đức, Hồ Biểu Chánh chưa phản ánh được những mặt hiện thực chủ yếu của xã hội lúc bấy giờ. Ông chưa nhìn thấy được quy luật đấu tranh giai cấp. Tác giả phân chia xã hội một cách siêu hình ra làm hai hạng người : có nhân nghĩa và không có nhân nghĩa. Hễ giàu lòng nhân nghĩa thì nghèo đói, thế nào cũng sẽ được no ấm, hạnh phúc còn bọn nhà giàu vô lương tâm thì trước sau thế nào cũng bị (tác giả) trừng phạt! Hồ Biểu Chánh không chủ trương đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến trên lĩnh vực chính trị và kinh tế mà chỉ sửa chữa nó về mặt đạo đức. Trong tác phẩm, ông đã đề cao một thứ chủ nghĩa cải lương phong kiến (một đôi khi chủ nghĩa cải lương tư sản). Khuynh hướng hiện thực trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh gắn liền với khuynh hướng cải lương và khuynh hướng đạo lý.

Trong văn học Nam bộ khuynh hướng đạo lý đã được thể hiện từ thời Nguyễn Đình Chiểu cho đến các nhà văn lớp sau như Phú Đức, Hồ Biểu Chánh. Ở Hồ Biểu Chánh, khuynh hướng đó vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực. Khuynh hướng đạo lý giúp cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh giữ được nhiều truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt-nam cổ điển: giàu tính lý tưởng, giàu tinh thần dân chủ chống phong kiến. Lấy riêng một cuốn tiểu thuyết " Ngọn cỏ gió đùa" mà nói thì các nhân vật trung tâm ở đây đều tiêu biểu cho những con người đạo đức nhân nghĩa, anh hùng khí tiết (Lê Văn Đỏ, hoà thượng Chánh Tâm, Lý Ánh Nguyệt, Vương Thế Hùng).

Một mặt khác, như trên đã nói, đứng ở góc độ đạo đức, Hồ Biểu Chánh đã thấy được một mặt xấu xa, thương luân bại lý của bọn địa chủ quan lại trong xã hội thời bấy giờ.

Quan niệm đạo đức của Hồ Biểu Chánh nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ chật hẹp của đạo đức phong kiến. Vì thế cho nên các nhân vật tích cực của ông đã đề cao đạo đức nhân nghĩa của quần chúng. Có lúc ông đã đứng trên quan điểm đạo đức nhân nghĩa đó mà phê phán những quan niệm trung hiếu hẹp hòi của phong kiến. Hồ Biểu Chánh làm quan mà có lúc lại ca tụng "giặc Lê Văn Khôi" là "giặc anh hùng vì ân nghĩa, vì phẩm giá mà nổi lên"; đồng tình với cái lý luận làm giặc của Vương Thế Phụng (con Vương Thế Hùng) : "Tôi làm giặc đây là tính giết cho sạch những kẻ vô tâm ác đạo, phi nghĩa bạc ân đặng lập một đời mới cho nhân dân hưởng mùi đạo nghĩa".

Tuy có những mặt ảnh hưởng tích cực như vậy nhưng khuynh hướng đạo lý đồng thời lại hạn chế nội dung hiện thực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Văn học là một công cụ đấu tranh giai cấp, nó phải phục vụ những quan điểm chính trị và đạo đức của một giai cấp nhất định. Nhưng văn học có những đặc thù riêng biệt của nó khiến cho nó không đồng nhất với đạo đức. Nhà tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa không thể rời bỏ nhiệm vụ phản ánh hiện thực khách quan, dùng tác phẩm, dùng nhân vật thuyết minh cho những quan điểm đạo đức chủ quan của mình được. Đáng tiếc là trong khá nhiều trường hợp, Hồ Biểu Chánh đã từ bỏ lập trường của chủ nghĩa hiện thực để chạy theo những quan điểm duy tâm, sặc mùi cải lương chủ nghĩa. Bằng những lối kết thúc có hậu rất giả tạo, Hồ Biểu Chánh đã giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong tác phẩm của mình một cách hoàn toàn chủ quan, tuỳ tiện; cuối tác phẩm bao giờ những người nghèo giàu đạo đức nhân nghĩa cũng được sung sướng, còn bọn nhà giàu bất lương, bạc ái thì bị trừng phạt đích đáng ( Ngọn gió đùa, Con nhà nghèo, Tiền bạc bạc tiền ). Trong cốt chuyện Con nhà nghèo và Tiền bạc bạc tiền, tác giả đã sử dụng nhiều chi tiết ngẫu nhiên để trừng phạt bọn nhà giàu không nhân nghĩa. Bằng một tai nạn xe hơi bất ngờ, tác giả đã giết chết mụ tri phủ Khánh Long, in một cái sẹo vào giữa mặt Đỗ Thị và biến huyện hàm Phan Phú Thứ thành một anh thọt chân! Tính cách của một số nhân vật không phát triển theo cái lôgic khách quan của cuộc sống mà bị uốn theo lôgic chủ quan của tác giả (Lê Văn Đó, Trần Thượng Trí, cuối cùng biến thành những nhân vật tu nhân tích đức). Tập hai của một số tác phẩm yếu hẵn đi vì tác giả chạy theo những quan điểm quả báo của nhà phật ( Con nhà nghèo, Con nhà giàu, Ngọn cỏ gió đùa). Do những mâu thuẫn trong thế giới quan, khuynh hướng hiện thực của Hồ Biểu Chánh là một khuynh hướng hiện thực không triệt để.

Về mặt chính trị, cần phê phán nghiêm khắc những màu sắc cải lương phản động trong tác phẩm của ông. Đứng ở góc độ đạo đức, Hồ Biểu Chánh phê phán những bọn địa chủ, quan lại dâm ô, tàn bạo. Nhưng tác giả lại chủ trương: "làm giàu đặng cứu dân hết cùng khổ thì mình sùng bái, chớ mình đâu dám kích bác họ" (Khóc thầm). Ở đây ta thấy rõ hạn chế của tư tưởng Hồ Biểu Chánh; tuy có phê phán bọn địa chủ, quan lại về một phương diện nhất định, nhưng nói chung lập trường của Hồ Biểu Chánh vẫn là lập trường của giai cấp phong kiến. Chưa bao giờ ông chủ trương đánh đổ giai câp địa chủ phong kiến, ông ra sức sửa chữa nó theo quan điểm của chủ nghĩa cải lương. Vì vậy trong tiểu thuyết, ông đã đề cao một bọn địa chủ "từ thiện", xây dựng chúng thành những người mẫu lý tưởng! Hồ Biểu Chánh đã biến các thôn ấp của bọn địa chủ "từ thiện" thành những thiên đường giả tạo của chủ nghĩa cải lương phong kiến.

Thật là những quan niệm hết sức ngây thơ nếu không muốn nói là phản động. Đấu tranh giai cấp bị thủ tiêu, mâu thuẫn giai cấp bị xoá nhoà. Nông dân với địa chủ là người có đạo đức. Nhân ngày vợ chồng Thượng Tứ xum họp, nông dân mua một con heo làm thịt ăn mừng, mời vợ chồng Thượng Tứ "chung vui'' ! Lối kết thúc có hậu giả tạo này hoàn toàn đi ngược lại chủ nghĩa hiện thực.

Trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng cần phê phán những lời tuyên truyền nhạt nhẽo cho đạo Phật, cho những lý thuyết về số kiếp, về quả báo, về việc tu nhân tích đức, suốt đời làm điều thiện, không nên báo oán (kể cả đối với kẻ thù). Suốt cuộc đời của mình, Lê Văn Đó đã sống theo gương của hoà thượng Chánh Tâm cũng như Giăng Vangiăng (Jean Valjean) đi theo con đường của ông giáo mục Mirien (Myriel) lý tưởng ! Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đôi khi tư tưởng thoát tục của nhà phật lại quyện lẫn với chủ nghĩa yếm thế của đạo nho (lời bình luận ở đầu tập hai cuốn Con nhà nghèo). Tẩt cả những lý thuyết sai lầm trên đây đều dẫn người ta đến chủ nghĩa cải lương phản động, chủ trương thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Hồ Biểu Chánh có những lúc tỏ ra rất gần gũi với quần chúng. Nhưng lập trường quan lại phong kiến đã hạn chế cái nhìn của ông, đưa ông đi ngược lại con đường của chủ nghĩa hiện thực. Đó là một thứ chủ nghĩa hiện thực không triệt để và thiếu tự giác. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có khuynh hướng hiện thực, nhưng trong nhiều trường hợp ông đã rơi vào xu hướng chủ quan, xu hướng lý tưởng hóa của chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ.

Cũng cần nói thêm là trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải chỉ màu sắc của chủ nghĩa cải lương phong kiến. Đôi khi những chủ trương của ông có phản ánh lập trường của giai cấp tư sản dân tộc sau đại chiến thế giới lần thứ nhất ( có lẽ đây là chỗ khác nhau giữa ông với Bùi Quang Chiêu).

Chương trình "khai hoá" của Hồ Biểu Chánh ít nhiều có mang tinh thần dân tộc tự chủ, nhưng lại rơi vào lập trường chủ nghĩa cải lương tư sản, không đặt vấn đề đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Những màu sắc của chủ nghĩa cải lương trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (dù là cải lương phong kiến hay cải lương tư sản) đều mang tính chất bảo thủ, phản động, nó gây cho thanh niên những ảo tưởng nguy hiểm khiến họ thoát ly cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Trên đây là những khuynh hướng tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam trước 1930, đã góp phần vào quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Nhưng trên bức tranh Văn học ấy vẫn còn có những chỗ mờ nhạt, những khoảng trống, thiếu sự bù đắp.Điều ấy phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử của đất nước lúc bấy giờ và tình thế chung, xu hướng chung của khu vực và nền văn hóa của mỗi dân tộc.Những khuynh hướng trên là nền móng vững chắc cho sự phát triển của tiểu thuyết và văn xuôi trong giai đoạn sau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét