foto

foto
anh ban be va gia dinh

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

Chủ nghĩa nữ quyền

CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN

I. Nguồn gốc ra đời và các bước phát triển của chủ nghĩa nữ quyền.

1. Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa nữ quyền.

Chủ nghĩa nữ quyền vốn là danh từ do Nhật văn dịch ra Trung văn. Thật ra từ thế kỷ 18 do phong trào tự do lớn mạnh, người ta đã đưa ra vấn đề nam nữ bình đẳng và chủ nghĩa nữ tính tự do (Liberal feminism).

Chủ nghĩa nữ quyền xuất hiện là do sự bất bình đẳng về giới, vì nữ tính từ xưa đến nay về chính trị bị áp bức, về xã hội bị chèn ép nhận chìm, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính tước đoạt ( đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén, ngay cả trong vấn đề hôn nhân – gia đình phụ nữ cung không có quyền định doạt. Trong xã hội cũ phụ nữ chit sống với bản năng của một người đàn bà là sinh con, va chăm lo cho gia đình. Bản năng đó gắn liền với người phụ nữ một cách bất di, bất dịch. Đàn bà như một nhân chứng của quỷ dữ - bản năng của người phụ nữ chứa đựng cả hạnh phúc lẫn khổ đau.

Trong trường kỳ lịch sử, nữ tính không chỉ bị lệ thuộc, địa vị thấp kém sống trong sự nương tựa, trong xã hội cũng như trong thiên nhiên không bao giờ được phát huy, điều kiện kinh tế lại nghèo khó khốn đốn, trình độ văn hóa yếu kém, không hề được học tập dạy dỗ, vấn đề nữ tính về lâu về dài thành bệnh tật. Tất cả những sự kiện đó là điểm chủ yếu để cho chủ nghĩa nữ quyền và dẫn đến điểm xuất phát đồng lớn tiếng đòi hỏi và duy trì nữ quyền.

Căn cứ vào giả thiết truyền thống, nam tính phát huy tính dương cương; nữ tính biểu hiện qui phạm mỹ học thuộc đạo âm nhu. Vì vậy, ngay cả khoái cảm tính dục trong chuyện tình yêu, hôn nhân – gia đình cũng do đàn ông thống ngự, người phụ nữ chỉ biết cam chịu và chấp nhận.

Ở những thập niên 60 – 70 của thế khỉ XX có những luật trừng trị rất nặng những người đàn bà mag thai ngoài giá thú. Trong xã hội phong kiến Việt Nam có các hình phat như : cạo đầu bôi vôi, thả bè trôi sông … Có thể nói người phụ nữ đã phải chịu đựng những hủ tục hà khắc, trong đó yếu tố lớn nhất để giả phóng nữ quyền là giả phóng luật hôn nhân và quyền bình đẳng về giới, đòi lại sự công bằng cho phái nữ.

2. Các bước phát triển của chủ nghĩa nữ quyền.

Giai đoạn “ tiên phong và nữ quyền nguyên sơ ” tương ứng với cao trào nữ quyền I, tính từ hậu thế chiến II trở về trước, với minh chứng về quyền của phụ nữ (1792) của Mary Wollstonecraft, “ tổ mẫu ” của chủ nghĩa nữ quyền. Bà phản đối thẩm quyền xác lập nữ tính của các tác giả nam. Bà coi nhà văn nữ là người có lý trí, đạo đức, nhân hậu, phản đề của thói ủy mị giả tạo. Luận điểm của Wollstonecraft là về bản chất của giới tính được kiến tạo như một lợi thế: viết và nghĩ không thể vượt khỏi thân xác, và không thể loại phụ nữ ra khỏi vị trí xã hội. Tác phẩm “ Một căn phòng cho riêng mình” (1929) của Virginia Woolf được coi như “ sách vỡ lòng ” của phê bình nữ quyền. Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày nay có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ lùi thông qua người mẹ, về ý kiến của đàn bà, và về tinh thần song giới (dung hoà cả hai giới tính).

Giai đoạn tiếp theo tương ứng với cao trào nữ quyền II ( thập niên 1960 và 1970 của thế kỉ XX với tác giả tiêu biểu là Marie olympe de Gouge ( 1748 – 1793) người Pháp, là tác giả của bản tuyên ngôn nhân quyền về giới nữ. Bà là người dầu tiên trên thế giới đòi quyền qiải phóng người da đen và đã bị kết án vì hoạt động nữ quyền.

Tác giả tioếp theoSimone de Beauvoir (1908 -1986) với tác phẩm “ Deuxièmesexe” ( Giới nữ) (1949) , được đáh giá là “bản tuyên ngôn nữ quyền”. Cuốn sách là một công trình lý luận triết học về phụ nữ, xuất phát từ quan điểm nam nữ bình quyền. Cuốn sách xoay quanh vấn đề: Phụ nữ bị kẹt trong tình trạng bị áp bức lâu dài qua sự loại bỏ mình nên trở thành giới ít quan trọng hơn (giới thứ hai) trong mối quan hệ với nam giới.

Simone de Beauvoir dã luận giải về những đặc tính của nưc giới như: Tuổi dậy thì, đặc tính tự yêu mình, tình dục, thủ dâm, tiến đến giải phóng phụ nữ… Sử dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, Beauvoir khẳng định rằng khoa học sinh học, thần thoại học, nhân loại học không ngành nào đủ khả năng để giải thích định nghĩa phụ nữ là giới thứ hai đối với nam giới cũng như vị thế áp bức của họ, nhưng mỗi ngành này đều góp phần tạo nên vị thế đó của phụ nữ. Đáng chú ý là những diễn giải về thần thoại của bà đối với vai trò này. Bà chỉ ra rằng những thần thoại về người mẹ, về tổ quốc, thiên nhiên v.v… trói buộc phụ nữ vào cách hình mẫu lý tưởng bất khả thi bằng cách chối bỏ cá nhân và vị thế của mọi loại phụ nữ. Hình mẫu lý tưởng này tạo ra sự kì vọng không tưởng bởi nhiều biểu hiện của thần thoại về phụ nữ cho thấy sự mâu thuẫn. Chẳng hạn lịch sự cho thấy có bao nhiêu đại diện cho hình ảnh người mẹ là thần hộ mệnh được kính trọng thì cũng có bấy nhiêu hình ảnh người mẹ được miêu tả như những kẻ báo hiệu cái chết. Vì thế những người mẹ vừa được yêu lại vừa bị ghét. Có thể thấy sự mâu thuẫn này ở tất cả các thần thoại về phụ nữ và như vậy khiến cho phụ nữ mang gánh nặng và trách nhiệm về sự tồn tại. Xét đến vấn đề sinh học và lịch sử, Beauvoir lưu ý rằng phụ nữ có những thiên chức mà nam giới không hề có như mang thai, nuôi con, có kinh nguyệt, góp phần tạo cho vị thế của người phụ nữ có sự khác biệt rõ rệt. Tuy nhiên những biểu hiện sinh lý này không trực tiếp làm cho phụ nữ có vị thế thấp kém hơn bởi yếu tố sinh học và lịch sử không đơn thuần là những sự thật thu được từ sự quan sát không thành kiến mà luôn được cấu thành và giải thích từ một hoàn cảnh. Kết thúc chương I bà viết: “Chúng ta phải xét các lập luận sinh học trong ánh sáng của một bối cảnh liên quan đến tâm lý học, xã hội học, bản thể học, kinh tế học. Sự nô dịch phụ nữ và sự giới hạn sức mạnh đa dạng của họ là cực kỳ quan trọng; cơ thể của phụ nữ là một trong những yếu tố tạo nên vị thế của phụ nữ trong thế giới này. Nhưng yếu tố đó không đủ để định nghĩa phụ nữ là phụ nữ (giới thứ hai). Sinh học không đủ khả năng trả lời chúng ta câu hỏi đang đặt ra: Tại sao phụ nữ lại là giới thứ hai; nhiệm vụ của chúng ta là khám phá bản chất của phụ nữ bị ảnh hưởng như thế nào trong quá trình lịch sử; chúng ta phải tìm ra bằng gì loài người đã tạo ra phụ nữ”.

Từ những luận giải trên, Beauvoir chủ ý phá bỏ luận bản chất cho rằng đàn bà sinh ra đã là “ đàn bà ” (là phái yếu) chứ không phải trở thành như vậy qua quá trình vận động của xã hội. Bà dẫn ra quá trình giáo dục mà người phụ nữ nhận được từ khi còn bé cho tới khi bắt đầu trải nghiệm đời sống tình dục và ở mỗi giai đoạn bà đều chứng minh được rằng, phụ nữ bằng sự chấp nhận vai trò bị động trước những nhu cầu chủ động và chủ quan của đàn ông đã buộc phải từ bỏ đòi hỏi đối với tính siêu nghiệm (sự vượt trội) và tính chủ quan đích thực như thế nào.

Qua lý luận của mình, Beauvoir muốn quả quyết rằng: Phụ nữ có khả năng lựa chọn như nam giới và vì thế có thể lựa chọn nâng cao vị thế của mình lên. Bà chỉ ra rằng phụ nữ cần phải giải phóng mình và phục hồi cái tôi của mình, trước hết bằng cách cho phép mình vượt lên bằng những hướng đi tự do, tự hào về bản thân mình trong suy nghĩ, trong sáng tạo, trong hành động giống như nam giới. Bà cũng đặt ra những đòi hỏi đối với xã hội trong mục tiêu hướng tới bình đẳng nam nữ. Theo bà muốn đạt được mục tiêu đó thì các cấu trúc xã hội như luật pháp, giáo dục, phong tục v.v… cần phải được điều chỉnh.

Chứa đựng tư tưởng triết học mới mẻ và táo bạo như vậy nên không có gì khó hiểu khi vào thời điểm cuốn “ Giới nữ ”được xuất bản lần đầu vào năm 1947 nó lại vị Vatican liệt vào danh sách những cuốn sách bị cấm. Rõ ràng những gì Beauvoir luận giải thách thức không ít những quan điểm về phụ nữ đã tồn tại từ lâu và không thể phủ nhận rằng những tư tưởng của Beauvoir có đủ sức mạnh khuấy động ý thức vươn lên của người phụ nữ và làm cho những người đàn ông có tư tưởng trọng nam khinh nữ không hài lòng. Giới thứ hai có ảnh hưởng lớn đến nỗi người ta cho rằng Beauvoir là mẹ đẻ của phong trào đòi nam nữ bình quyền hậu 1968. Trải qua hơn gần một thế kỷ, cuốn sách vẫn được coi là một tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu về triết học, và về phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, nó có thêm rất nhiều độc giả là những người phụ nữ đã có vị thế ngang bằng với đàn ông cả ở trong gia đình và ngoài xã hội.

Giai đoạn thứ ba là cao trào III ( thập niên 1980 và 1990 ), Đây là giai đoạn quan trọng, hình thành và phát triển những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa nữ quyền. Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing,. Sinh ra trong một gia đình người Anh vào năm 1919. Công trình có thể coi là vĩ đại nhất trong sự nghiệp văn học của bà là The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng) xuất bản năm 1962. Tác phẩm được coi như tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền mặc dù bản thân tác giả không hề có chủ đích để cuốn sách mang thông điệp chính trị. “ Các nhà hoạt động nữ quyền có thể coi Cuốn sổ tay vàng như là tiên phong cho cái nhìn của thế kỷ 20 về quan hệ nam- nữ - Ban giám khảo Nobel đã phát biểu như vậy trong lễ trao giải. Nobel.

Giai đoạn tính từ đầu thiên niên kỷ thứ ba đến ngày nay, có thể coi là “chuyển đổi mô hình” văn học nữ quyền với ảnh hưởng của hậu cấu trúc và hậu hiện đại.

Dựa vào sự hình thành và phát triển có thể hình dung diện mạo của văn học nữ quyền theo tuyến thời gian. Những tác giả khác tìm kiếm định nghĩa văn học nữ quyền từ những cách tiếp cận khác. Mary Eagleton trong quyển thuyết văn học nữ quyền (Blackwell Publishing, 1996) khảo sát mối quan hệ giữa phụ nữ và tác tạo văn chương, giữa giới tính và thể loại, xác định ý nghĩa văn chương nữ, nhận diện một truyền thống văn chương nữ, đặt vấn đề về có khác biệt chăng trong đọc nữ và viết nữ. Toril Moi trong quyển Chính kiến văn bản / giới tính (NXB Routledge, 2002) chia ra hai trường phái: phê bình văn học nữ quyền Anh - Mỹ và phê bình văn học nữ quyền Pháp. Do đặc trưng ngôn ngữ của văn học, mỗi nền văn học của từng dân tộc có ngôn ngữ riêng đều có những tính chất riêng trong văn học sử và hệ thống lý luận phê bình.

3. Tại sao chủ nghĩa nữ quyền lại diễn ra mạnh mẽ trong hoạt động văn học ?

Văn học được xem là tiếng nói của tâm hồn, nếu có con đường đi tới tâm hồn ngăn nhất thì đó là văn học, nhất là đối với phụ nữ họ phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, các nhà văn nữ tìm đến con đường văn học không chỉ để bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình và mong nhận được sự sđồng cảm, mà đối với họ văn học còn là con đường để đi đến đấu tranh đòi bình đẳng về giới.

Văn học nữ quyền được biết đến với nhiều tác giả tiêu biểu trên thế giới,được biểu hiện trên hai phương diên : phê bình văn học nữ quyền ( như đã nói ở trên ) và trong các sáng tác văn chương của những nhà văn nữ. Văn học nữ quyền gắn với quyền sống cơ bản của người phụ nữ, gắn với thế giới quan về con người của người phụ nữ, đi sâu vào thế giới phức tạp của người phụ nữ.

Ưu điểm của văn học nữ giới chính là tinh thần phụ nữ. Những đề tài tưởng như nhàm chán bởi bị thu hẹp quanh quẩn hôn nhân, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, con cái... lại được làm phong phú bởi bề sâu cảm xúc và chiêm nghiệm theo cách rất phụ nữ. Họ đề cập đến những vêvs đề « cấm kị » như đề cao tính dục, đề cao thân xác, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ và đã kích vào thế giới gia trưởng, nam quyền.

Nhược điểm thì là đây: họ chống lại thế giới đàn ông, đôi khi cho rằng thế giới phụ nữ là trên hết và đôi khi đề cao cả việc tình yêu đồng tính.

Tác phẩm “ Tình ơi là tình” của Elfriede Jelinek kể về một câu chuyện đơn giản, cũ xì như cuộc đời vẫn thế: hai cô gái mới lớn mơ ước lấy được ông chồng để yên tấm thân. Một cô yêu phải một gã béo ích kỷ và một cô vớ phải một thằng đần độn còn ích kỷ hơn. Cô may mắn lấy được kẻ đã ngủ với mình làm chồng, cô kém may mắn hơn phải đứng đường để lấy tiền nuôi con. Cuộc sống là như thế đấy: trần trụi, bẩn thỉu, hài hước; tình yêu là như thế đấy: toan tính, ích kỷ, may rủi; đạo đức là thế đấy: ai to mồm hơn, khỏe mạnh hơn sẽ có quyền kết án kẻ yếu thế và rủi ro hơn. Nhưng đó vẫn là một cuộc sống mà tất cả đều đang phải sống. Người ta thường được nghe về Jelinek là một nữ văn sĩ đấu tranh cho nữ quyền - không có nhận định nào sai hơn! Và tác phẩm « Tình ơi là tình là một minh chứng cho một văn phong nữ đầy cá tính.

Marguerite Duras tác giả người pháp với tác phẩm “ Người tình” dã tững để lại nhứng ấn tượng sốc đối với độc giả. Vệ Tuệ - tác giả Trung Quốc với hàng loạt tác phẩm như : « Điên cuồng như Vệ Tuệ », « Baby thượng hải »… Cửu Đan với tác phẩm « Qụa đen »… Trung Quốc bùng phát, nổi loạn với cách viết táo bạo của một số cây bút nữ trẻ trong dòng văn học Linglei như Vệ Tuệ, Xuân Thụ, Cửu Đan, Miên Miên, An Ni Bảo Bối, v.v…

Ở Việt Nam văn học nữ quyền cũng bứt đầu bám rễ, với các tác giả tiêu biểu như : Đôc Hoàng Diệu ( Bóng đè) , Võ Thị Hảo ( Người sót lại của rừng Cười), Phạm Thị Hoài ( Năm ngày)…

Tình yêu, hạnh phúc cá nhân là một trong những đề tài thuộc “gu” thẩm mỹ của các nhà văn nữ. Đó cũng là một cách để họ tự soi chiếu mình. Khi viết về tình yêu, họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc: Từ những dư vị ngọt ngào đến những dư vị đắng chát, từ đớn đau đến xót xa. Từ những nhẹ dạ, cả tin đến những mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải v.v…tất cả đều là những bộc bạch chân thực nhất. Dấu hiệu ý thức nữ quyền thấy rõ trong thái độ chủ động cũng như quyết liệt đấu tranh để giành, giữ tình yêu, dám sống thật với chính mình và dám đi đến tận cùng bản thể. Nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ đa phần là những người đàn bà bất hạnh trong tình duyên và trong đời sống gia đình. Nhưng hơn bao giờ hết họ luôn có thái độ chủ động trong tình yêu, dám làm tất cả những gì mình khao khát. Họ ý thức rất rõ về hạnh phúc và luôn đấu tranh để đi đến hạnh phúc ấy. Nhân vật Lụa trong truyện ngắn “Bảy ngày trong đời” dám trốn bố mẹ đến với Sanh – người mà cô rất yêu thương mặc dù chưa hiểu rõ về Sanh. Cô cũng đã trao cho Sanh cái quý giá nhất của đời người con gái. Rồi Sanh đi, cô cũng không biết anh đi đâu? ở đâu? Và kết quả của mối tình ấy là cái thai đã tám tháng nhưng vẫn không có tin tức của Sanh. Một mình Lụa đối diện với bao dè bỉu của thiên hạ “cô là đứa con gái hư hỏng, xấu xa. Không chồng mà chửa. Nhưng với Lụa. Đó là tất cả cuộc đời cô”. Và cô quả quyết rằng mình “dám làm thì dám chịu” để “giữ tình yêu ấy trong lòng”. Phải là người thực sự bản lĩnh cô mới dám cả “gan” và quyết liệt bảo vệ và giành giữ tình yêu của mình đến như thế. Nhân vật nữ trong truyện ngắn của Y Ban cũng là những con người, dám xông xáo trên con đường đi tìm tình yêu mặc dù họ biết trước rằng cuối cùng mối tình ấy cũng chỉ là vô vọng. Cô gái tên Lụa trong “Chợ rằm dưới gốc cây cổ thụ” gặp và yêu chàng trai thổi sáo ở chợ đêm rằm. Nhưng cô đâu biết rằng người cô yêu chỉ là một hồn ma còn “vấn vương” duyên trần thế. Tình yêu ấy làm cô “tràn đầy xốn xang”mặc dù sau đó được mẹ cho biết chàng đã chết nhưng trong chợ đêm rằm tháng bảy ấy khi được mẹ cho đi gặp anh, cô rất vui “như mở cờ trong bụng” rồi đi tìm anh. Dù không bao giờ được gặp lại người mình yêu nữa nhưng cô âm thầm giữ trọn mối tình ấy trong lòng. Võ Thị Hảo cũng “ưu ái” và dành nhiều trang viết về người phụ nữ. Họ hiện lên là “những người đàn bà khổ vì yêu, rút hết gan, hết ruột để yêu và hi sinh cho tình yêu bất cần những hệ lụy sau đó” . Nàng H’Điêu trong “Khát của muôn đời” luôn khát khao yêu và sẵn sàng đi tìm người mình yêu thương không ngại hi sinh bản thân mình, không quản cái chết, nàng cho rằng “khi yêu, con người ta vừa như mới sinh ra và người già cũng lập tức trở thành vụng dại như trẻ nhỏ”. Nàng đã nguyện trở về kiếp trước, biến thành cây chanh để cứu giúp những người sau đó – những cô gái bị lỡ làng, phụ bạc“chính trái cây em đã làm nỗi đau trong tim họ dịu lại. Và sau đó ai ăn trái chanh H’Điêu người đó sẽ biết quên mình, và vậy là người đó biết yêu”. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có tình yêu “Thử hỏi thế gian này không còn ai biết mình, không còn ai si mê, không còn tìm đâu ra một kẻ biết yêu (…) ở trong ngực mọi người chỉ còn là băng giá, chẳng còn những H’Điêu không quản cái chết đi tìm người yêu, thì liệu có đáng còn thế giới này chăng? thật đáng sợ”.

Qua trang viết, những ước ao, những khát vọng của phái nữ được nâng niu. Quan trọng hơn, họ ý thức cách về giá trị của chính bản thân mình. Trân trọng cái tôi bản thể. Đó là một bệ phóng quan trọng để thức tỉnh những phần sâu kín mà người phụ nữ vẫn cố nén chịu.. Nhà văn viết bằng một sự cảm thông sâu sắc đọng lại trên trang văn là cái nhìn nhân ái về số phận con người. Cuộc hành trình mải miết kiếm tìm hạnh phúc của nữ sĩ Mỹ Tiệp trong “Gia đình bé mọn” (Dạ Ngân) lắm chông gai và rào cản. Gia đình phản đối, dòng tộc, dư luận dè bỉu. Kết quả của sự vênh lệch trong suy nghĩ, cách sống của Mỹ Tiệp và chồng là những tháng ngày chịu đựng đầy khổ ải, nỗi đau chất chồng nỗi đau. Cuối cùng vượt lên tất cả Tiệp cũng quyết định chia tay với Tuyên để được sống với người mình yêu thương. Dạ Ngân như hóa thân vào nhân vật Tiệp để thể hiện sâu sắc những cảm giác, cảm xúc rất phụ nữ. “Gia đình bé mọn” một câu chuyện giản dị đã chuyển tải một thông điệp rằng hạnh phúc của người phụ nữ không tự đến mà đó là quá trình kiếm tìm gian lao. Điều đó không phải người phụ nữ nào cũng ý thức và dám làm nhất là trong xã hội nặng đạo lý Tam tòng như các nước phương Đông.

Không còn cái mặc cảm e dè, sợ hãi khi đến với người mình yêu mặc dù bị gia đình, xã hội ngăn cản. Họ - những người phụ nữ dẫu biết rằng cái kết cục của những mối tình ấy không mấy tốt đẹp nhưng vẫn chủ động yêu, sẵn sàng làm tất cả để giành và giữ tình yêu ấy. Điều đó một mặt cho ý thức cá nhân, yếu tố riêng tư đã “cựa quậy” để thoát ra khỏi những ràng buộc cố hữu. Dám sống thật với chính cảm xúc, khát khao của mình – đó không phải là điều dễ thấy trong hình ảnh những người phụ nữ trước đây khi mà gánh nặng “tam tòng” còn đè nặng lên vai. Từ đó đã dần dần hé lộ ra những dấu hiệu ý thức “nữ quyền” một cách kín đáo nhưng không kém phần quyết liệt.

II.Tìm hiểu về phong cách trần thuật nữ giới.

Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật…Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn.

Chủ nghĩa nữ quyền trong văn học được biểu hiện trước hết ở ngôn ngữ kể chuyện của các nhà văn nữ - người kể chuyện nữ tính gắn với thế giới quan và quan niệm về con người của các nhà văn nữ.

Giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư trong « Cánh đồng bất tận » là một giọng văn nhẹ nhàng, trữ tình, lắng đọng vừa đầy tâm trạng suy tư được gọi ra bằng hàng loạt câu văn buông lơi, mềm mại.

Với tác phẩm « Bóng đè » Đỗ Hoàng Diệu cho thấy một cái nhìn mới về người phụ nữ theo quan niêm phương Đông. Tác phẩm được một số người coi là “thành công” trong tập truyện của Đỗ Hoàng Diệu gồm hai truyện ngắn Bóng đèVu quy. Với Bóng đè, điều đáng nói ở truyện ngắn này là ý tưởng của Bóng đè, , chỉ là sự “vay mượn” điều cách đây hơn chục năm trong truyện ngắn Vàng lửa, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng một hình ảnh khá dung tục để “hình thức hóa” một ý tưởng của anh về quá trình giao lưu có tính chất “cưỡng bức” trong lịch sử giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Việt Nam. Sáng tạo của Đỗ Hoàng Diệu trong Bóng đè là “cấp” cho ý tưởng đó một cốt truyện, một cái vỏ “sex”, song tác giả không đủ khả năng thoát ra khỏi cái “bóng” của ý tưởng đã “vay mượn”, nó “đè” lên tác phẩm tới mức tác giả buộc phải đưa ra một chỉ dẫn về gốc gác “hoàng đế Trung Hoa” của nhân vật.

Như vậy, những cuộc “hoan lạc” với “tổ tiên nhà chồng” của “tôi” trong Bóng đè (dịch chuyển từ ngỡ ngàng, kinh hãi đến thích thú, đam mê) đã không giúp làm sáng tỏ, cụ thể hơn là chưa vượt ra khỏi ý tưởng nguyên gốc. Sống trong ba chiều quá khứ - hiện tại - tương lai, sống giữa các mối liên hệ văn hóa trong và ngoài cộng đồng như đã trở thành một “mặc định sinh tồn” của loài người, dù vùng vẫy thế nào, người ta cũng không thể lảng tránh sự hiện diện của quá khứ trong hiện tại, không thể thoát khỏi ảnh hưởng của các nền văn hóa khác mình nhưng có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ.

Lối viết miên man, lặp đi lặp lại các phiến đoạn cảm xúc nội tâm của nhân vật nữ ở truyện ngắn Bóng đè, trong và sau những cuộc “truy hoan”, có thể đem lại ấn tượng về một lối viết tinh tế, khác lạ và mới mẻ.

Thế giới nội tâm thầm kín của người phụ nữ trong tác phẩm « Bóng đè » đã được Đỗ Hoàng Diệu vén màn từ điểm nhìn trần thuật nữ tính và người kể chuyện cũng đầy nữ tính với những khao khát cháy bỏng. Lần đầu tiên ta bắt gặp một hình tượng người phụ nữ chủ động trong vấn đề chăn gối, Đỗ Hoàng Diệu đã cho chúng ta thấy phụ nữ có những xúc cảm thiêng liêng

Trước đây, người đọc chỉ quen nhìn thấy trong sáng tác của các nhà văn nữ sự dịu dàng, thơ mộng, nhưng giờ đây, nhiều nhà văn nữ cố gắng tạo ra thứ ngôn ngữ góc cạnh, đầy cá tính. Điều đó xuất phát từ ý thức:

a- Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ là thứ ngôn ngữ thể hiện chính xác nhất những trải nghiệm cá nhân giới nữ trong nhiều mối quan hệ khác nhau;

b- Không ít cây bút nữ công khai xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ mà không ngần ngại vấp phải sự phản ứng của người đọc;

c- Công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông và dám xông vào các đề tài cấm kị một cách tự do, nhất là đề tài tình dục. Tại đây, không phải lúc nào đàn bà cũng chỉ là trò chơi và nô lệ tình dục cho đàn ông mà nhiều khi, quyền chủ động thuộc về nữ giới. Với họ, tình dục là một phương diện thể hiện rõ nhất sự tự do bản ngã. Thậm chí, đã bắt đầu manh nha lối “viết bằng thân thể”, dùng ngôn ngữ để biểu hiện nhịp điệu của suy nghĩ;

d- Tuy quyết liệt, mạnh mẽ nhưng hơi ấm nữ tính trong nhiều trường hợp vẫn được “bảo lưu một cách vô thức” đã tạo hương vị riêng cho tác phẩm của các nhà văn nữ. Điều này thể hiện ở chỗ các nhà văn nữ thường miêu tả những vấn đề gần gũi với bản thân, những câu chuyện của họ không xa vời to tát mà gắn với đời sống thường nhật, hơi văn giàu cảm xúc. Có lẽ hơi ấm nữ tính này xuất phát từ cấu trúc não bộ và nhịp sinh học của nữ giới.

Như vậy, chủ nghĩa nữ quyền trong sáng tác văn học không còn là một vấn đề quá xa lạ mà nó ngày càng bám rễ sâu trên nhiều lĩnh vực. Người phụ nữ không chỉ khẳng định vị trí của mình trong văn học mà họcó những đòi hỏi chính đáng về giới trên nhiều lĩnh vực, nhiều phương diên khác nhau của đời sống.

III. Ý kiến cá nhân về chủ nghĩa nữ quyền

Theo ý kiến của bản thân em thiết nghĩ chủ nghĩa nữ quyền là một phong trào tiến bộ trên thế giới. Người phụ nữ trong lịch sử từ trước đến nay đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi, xã hội gắn cho họ những điều thuộc về bản năng, gò ép họ trong khuôn khổ, đã đến lúc người phụ nữ caanf đựoc hưởng quyền bình đẳng về giới, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hạ thấp đàn ông và phụ nữ là người thâu tóm mọi quyền lực. Bình đẳng ở đây là sự tự do thể hiện bản ngã của mình.

Trong lịch sử đã có rất nhiều hình ảnh người phụ nữ có vai trò quan trọng trong xã hội.

Cléopetre (69 TCN - 30 TCN) Là một người đàn bà đẹp mê hồn của Ai Cập từ hơn 2.000 năm trước, Cléopetre trở thành nữ hoàng khi mới 18 tuổi nhưng bà đã cai trị thành công đất nước Ai Cập. Không chỉ đẹp, Cléopetre còn có một trí thông minh tuyệt vời, tầm hiểu biết sâu rộng và khả năng thuyết phục có một không hai.

Với mối tình tay ba với hai người hùng của La Mã cổ đại: Hulius Caesar – vị Thống soái La Mã (100-44 trước Công Nguyên (TCN) và Antony – một trong ba người chấp chính của La Mã những năm 82-30 TCN, Cléopetre đã không chỉ bảo vệ được lợi ích cho đất nước Ai Cập mà còn ngăn cản không cho người La Mã chiếm đoạt Địa Trung Hải. Sau này, Blaise Pascal – nhà toán học, vật lý học, triết học và nhà văn Pháp đã nói: “Nếu cái mũi của Cléopetre dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽ thay đổi”.

Isabella I (1452 - 1540) Trở thành Nữ hoàng khi 23 tuổi, Isabella I là một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh và dũng cảm. Bà là người có công lớn trong việc thống nhất Tây Ban Nha sau 700 năm phân tán đất đai (1492). Đặc biệt, bà đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong việc nhà thám hiểm hàng hải Columbus phát hiện ra châu Mỹ.

Bà đã ủng hộ kế hoạch của Columbus và cung cấp tiền để ông tiến hành chuyến thám hiểm về hướng Tây. Khi ông trở về, Nữ hoàng Isabella I cùng chồng đã tiếp đón ông và tiếp tục hỗ trợ để ông tiến hành thêm 3 chuyến đi biển đến châu Mỹ. Sự nhìn xa trông rộng và ủng hộ của bà kết hợp với ý tưởng táo bạo của Columbus đã giúp phát hiện ra được một châu lục mới, khiến cho phần lớn châu Mỹ sau đó trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha và Châu Âu.

Từ Hy Thái Hậu (183... - 1908) Là quý phi của Hoàng đế Hàm Phong Văn Tông, là mẹ của Hoàng đế Đồng Trị, là dì của Hoàng đế Quang Tự nhà Thanh, Từ Hy Thái Hậu là một phụ nữ đẹp trong lịch sử Trung Quốc và cũng là một người phụ nữ đặc biệt vì trong suốt hai đời vua Đồng Trị và Quang Tự bà luôn buông rèm chấp chính (48 năm).

Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (625 - 705) Tên thật là Võ Chiếu, con gái của một vị đô đốc huyện lợi thời Đường Cao tổ. Là một người con gái đẹp tuyệt vời, bà được cả hai đời vua là Đường Thái Tông và Đường Cao Tông sủng ái và trở thành Hoàng hậu của vua Đường Cao Tông. Cả trong lịch sử và truyền thuyết Trung Hoa, Tắc Thiên là một người đàn bà thông minh tuyệt vời, nhiều mưu lược và tàn ác.

Ngay cả khi vua Đường Cao Tông chồng bà còn trị vì đất nước, Tắc Thiên đã nhiều lần ra tay tàn sát để chiếm đoạt và duy trì ngôi cao. Sau 20 năm chấp chính, ngày 9 tháng 9 năm 690, Võ Tắc Thiên lên ngôi Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Chu.

Từ khi trở thành vị nữ hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa, bà có một loạt các chính sách tiến bộ trong việc dùng người tài, trí thức, tập hợp trí tuệ tổ chức thi cử, khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy lợi, phát triển quân sự... Trị vì được 50 năm bà đã làm thay đổi đất nước Trung Hoa với một nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định và dân số tăng cao.

….vv…

Đó là những tấm gương tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội. Người phụ nữ có những quyền lợi và có khả năng làm được những việc mà phái mạnh có thể làm, xã hội ngày nay cần có sự bình đẳng về giới.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét